Thơ Hữu Loan không nhiều. Tập thơ Màu tím hoa sim (Nxb Hội Nhà văn, 1990) tập hợp 10 bài. Nhưng ông có những bài được nhiều người thuộc, được coi như dấu tích tâm hồn của một thời dân nước: Ðèo Cả, Màu tím hoa sim, Những làng đi qua...
Ðèo Cả viết năm thứ nhất Việt Nam Dân chủ cộng hòa (1946), khi ấy, đề tài cách mạng mới bắt đầu được các nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn lãng mạn làm quen. Người đọc mới thấy nhiệt tình của họ nhưng chưa thấy thơ, thì Ðèo Cả đã chín một cảm xúc thơ mới mẻ. Vừa mới đấy cả một khí quyển thơ buồn, bất đắc chí thì giờ đây Ðèo Cả hào sảng, khí phách. Thơ nói gian lao, cực khổ nhưng lòng người cao cả, nghĩa khí. Hình ảnh đất nước, núi, mây, trời, biển oai hùng, mến thương, kỳ vĩ. Cảnh, trong cái nhìn ngang dọc thoắt tây thoắt đông, cho thấy thế đứng của người thơ giữa bao la sông núi:
Núi cao ngất
Mây trời Ai Lao
Sầu đại dương
Dặm về heo hút
Ðá bia mù sương
Ðấy cũng là thế đứng của người dân ôm hồn sông núi trong một thời kỳ lịch sử sáng đẹp. Câu thơ ngắn, rắn khoẻ, chất chứa, giàu phong vị sử thi. Bút pháp mới nhưng là cái mới đã thâu tóm những tinh hoa cổ xưa của thơ cổ điển từ Ðường, Tống Trung Hoa đến Lý, Trần, Lê của dân tộc.
Hữu Loan sở trường một bút pháp trữ tình kể chuyện như Màu tím hoa sim, Những làng đi qua, Hoa lúa... Bài thơ có nhân vật, có tính cách, có diễn biến cốt truyện. Nhưng cốt truyện chỉ là cái khung để diễn đạt cảm xúc trữ tình. Ðông đảo bà con ta vốn ưa những truyện thơ, trước như Nhị độ mai, Phan Trần, Kiều... sau này là những bài thơ có chất truyện như Núi Ðôi (Vũ Cao), Quê hương (Giang Nam)... rất thích các bài thơ này của Hữu Loan. Chuyện là chuyện thời đánh giặc cứu nước, Hữu Loan khai thác tình cảnh tiêu biểu là chuyện xa cách lứa đôi. Màu tím hoa sim giới thiệu một nghịch cảnh: không chết người trai ra trận mà chết người gái hiền thục ở hậu phương, bình hoa cưới mới đó thành bình hương cúng. Kỷ vật của người đã mất là mầu áo tím, cái mầu vốn là tượng trưng cho nhớ thương. Loài hoa gợi mầu áo ấy là những đồi sim biền biệt dọc những vùng quê nghèo cằn cỗi. Cảnh và tình trong thơ Hữu Loan thường chung nỗi xao xuyến, và rất gợi buồn thương. Trong bài Những làng đi qua cũng nỗi nhớ thương trai lính, gái làng. Ý thơ bâng khuâng, ngân nga như một hoài niệm không rõ nét trong lòng người đọc. Hoa lúa cũng là chuyện tình yêu ngang trái. Giọng kể ở bài thơ này cùng những hình ảnh ước lệ gợi một thời xa, xa như trong ca dao, trong truyện Nôm khuyết danh, đã tạo một không khí oan trái muôn đời, dễ gợi những xót thương cố hữu của người Việt Nam mình. Thêm nữa, hình ảnh quê hương hiện lên từ nhiều nét quen thuộc, đậm tính dân tộc. Bài thơ do vậy dễ nhập lòng người. Nút gỡ giải oan cho những người trái duyên lỡ phận là cách mạng xã hội. Tác giả quy nạp cuộc đời hơi giản đơn: Những tình em / từ xưa tan vỡ / Từ đáy mồ sâu / hiện về / Vạch từng / tên / đao / phủ. Câu thơ triệt để leo thang, đến từ ghép đao phủ cũng bị chặt đôi, để tạo cảm giác lạ, nhưng vẫn cứ mất đi vẻ phóng túng ngang tàng thuở Ðèo Cả. Hồn vía cảm xúc ở đây không có tư thế ngang tàng thì thân xác câu thơ sao tạo ngang tàng được.
Hồn thơ Hữu Loan, trong thẳm sâu, thấm đẫm hương đồng nội. Ông thuộc lắm những cảnh quê, hồn quê. Trong khí quyển quê hương làng mạc, bút ông đụng vào đâu cũng dạt dào cảm xúc. Nhưng ông không mượt và thầm như Nguyễn Bính. Ông gân guốc và khí phách. Tình cảm, tư tưởng một chiến sĩ khởi nghĩa, đi cướp chính quyền ở địa phương đã cho ông tư thế cảm xúc ấy. Cảm xúc cách mạng tắm trong không khí bi hùng xưa, tạo nên vẻ đẹp tráng sĩ cho các nhân vật thơ Hữu Loan. Cũng như Nguyễn Bính, Hữu Loan có tài tạo các chi tiết cứ như cứa vào lòng người: biết tin em gái mất / trước tin em lấy chồng. Thơ ông cũng nhiều nước mắt như thơ Nguyễn Bính. Ở Nguyễn Bính nước mắt lăn thầm trên gương mặt những người đàn bà trái duyên lỡ phận. Còn ở Hữu Loan, nước mắt long lanh trên gương mặt sạm đen gió nắng chiến binh.
Hữu Loan ra đi nhưng ông đã để lại cả một vệt cảm xúc thời đại. Giọng thơ và hình ảnh ông, gan góc tự chủ, sẽ thành sức nâng đỡ, động viên cho thơ, cho ý chí của thơ.
VŨ QUẦN PHƯƠNG