Viêm màng não ở trẻ thường do ba nguyên nhân:
- Viêm màng não mủ.
- Viêm màng não do lao.
- Viêm màng não tăng tế bào lymphô.
Viêm màng não do lao thường gặp ở trẻ hơn 2 tuổi, lại thường xuất hiện sau một lao sơ nhiễm.
Viêm màng não mủ và viêm màng não tăng tế bào lymphô gặp cả ở trẻ lớn và trẻ sơ sinh.
Viêm màng não tăng tế bào lymphô còn gọi là viêm màng não nước trong hay viêm màng não không thấy vi khuẩn. Người ta cho rằng một số virus được coi là tác nhân gây bệnh như virus ECHO, Coxsackie... Trong trường hợp nhiễm ECHO có thể phát ban.
Bệnh có tiên lượng tốt, sẽ tự khỏi, chỉ điều trị triệu chứng như hạ sốt, an thần.
Đôi khi trẻ bị viêm màng não do não mô cầu nhưng không tìm thấy vi khuẩn hoặc đã có trị liệu kháng sinh trước đó, nếu có những dấu hiệu nghi ngờ thì trong trường hợp này không dựa vào vi khuẩn được mà phải điều trị rộng rãi.
* Viêm màng não mủ ở trẻ sơ sinh thường khó chẩn đoán. Viêm màng não mủ ở trẻ sơ sinh do nhiều loại vi khuẩn gây ra, thường là vi khuẩn gram âm như Salmonella, Escherichia Coli, Klebsiella, Proteus... hoặc vài vi khuẩn gram dương như liên cầu B và còn do tụ cầu, não mô cầu. Cần chú ý viêm màng não mủ do não mô cầu có đặc điểm là bệnh không chỉ xuất hiện ở màng não mà còn ở cả não thất và màng tủy. Bệnh có thể xuất hiện đơn thuần hoặc kết hợp với nhiễm khuẩn huyết hoặc có biến chứng viêm não thất thì rất nặng. Và cũng cần lưu ý rằng não mô cầu sống rất yếu khi ở ngoại cảnh nên ít khi phát hiện được nếu soi trực tiếp mà phải cấy nước não tủy ngay tại giường bệnh mới hy vọng tìm thấy vi khuẩn. Vì vậy muốn chẩn đoán xác định phải cấy dịch não tủy.
* Thể viêm màng não mủ ở trẻ sơ sinh có những triệu chứng khá đặc biệt: Trước hết bệnh xuất hiện từ từ, âm ỉ, không xuất hiện đầy đủ ngay các triệu chứng của viêm màng não. Trẻ quấy khóc rồi sau đó ngủ li bì cả ngày, có thể sốt nhẹ, không chịu bú, dễ nôn trớ. Lưỡi trẻ bẩn và đi tiêu chảy. Đến lúc bệnh trở nên rõ ràng thì khám lâm sàng thấy nhịp thở không đều, mạch rất nhanh. Mặt trẻ khi tái khi đỏ bừng. Đặt trẻ trên bàn thì đầu ngửa ra sau, lưng cong. Xốc nách lên thì hai chân trẻ co lại. Dấu hiệu có giá trị là thóp căng và mắt nhìn thẳng không chớp.
Trên thực tế nguyên nhân viêm màng não ở trẻ sơ sinh chỉ xác định bằng cách nghi ngờ có hệ thống một tổn thương màng não ở tất cả các nhiễm khuẩn sơ sinh như người mẹ bị nhiễm khuẩn, vỡ ối sớm từ 6-12 giờ trước sinh, nước ối có mầu bẩn...
Bệnh cảnh âm ỉ như vậy có khi tới vài tuần rồi sau đó hội chứng viêm màng não cấp mới đầy đủ làm xuất hiện các dấu hiệu co cứng li bì, hôn mê, liệt mắt và co giật.
Ở trẻ sơ sinh một số trường hợp tuy đã được điều trị khỏi nhưng sau một vài tháng lại có hiện tượng tăng áp lực nội sọ, đầu trẻ to dần do thủy thủng não.
Tiến triển của bệnh ở trẻ sơ sinh phần nào phụ thuộc vào tính nhạy cảm rất khác nhau của vi khuẩn gây bệnh (do chọc dò nước não tủy rồi đem cấy tìm vi khuẩn) đối với kháng sinh, cần được đáp ứng tuyệt đối theo kháng sinh đồ, một phần khác tùy theo cơ địa của trẻ.
Phòng bệnh
- Giải quyết các ổ nhiễm khuẩn ở tai mũi họng.
- Cần kiểm tra kỹ nhiễm khuẩn rốn - da - ruột.
- Tránh dùng kháng sinh bao vây.
- Nếu trẻ được xác định là viêm màng não do não mô cầu, bệnh dễ lây thành dịch nên phải cách ly trẻ trong vòng 20 ngày hoặc sau hai lần cấy họng bình thường (âm tính) cách nhau một tuần.
- Nuôi dưỡng trẻ bằng sữa mẹ là tốt nhất.