Thực trạng cơ khí TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh là trung tâm công nghiệp lớn, chiếm 30% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP của thành phố. Nhưng cơ cấu công nghiệp thành phố ngày càng tỏ ra bất hợp lý, cần sớm tái cấu trúc bởi vì công nghiệp thành phố hiện nay chủ yếu là công nghiệp chế biến (cũng là sơ chế) gia công lắp ráp. 15 nhóm hàng công nghiệp suốt 15 năm qua hầu như không thay đổi vị trí nghĩa là chiếm tỷ trọng lớn là các ngành chế biến thực phẩm, may mặc. Ngành công nghiệp có hàm lượng chất xám cao vẫn chiếm tỷ trọng thấp, đặc biệt là ngành cơ khí.
Trong những năm đổi mới, nhất là mấy năm gần đây, thực hiện chương trình hiện đại hóa các ngành công nghiệp chủ lực trên địa bàn nhiều doanh nghiệp cơ khí đã tập trung đổi mới thiết bị, có mức tăng trưởng bình quân gấp 1,5 lần mức tăng GDP của thành phố, góp phần tích cực vào sự phát triển của ngành công nghiệp. Ðã có một số sản phẩm cơ khí chất lượng cao phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu như máy làm bóng gạo, cân Nhơn Hòa, kéo Nguyễn Ðình, máy cán cao-su, máy tách chọn hạt cà-phê...
Tuy nhiên, nhìn lại lịch sử phát triển ngành cơ khí thành phố trước năm 1975, cơ khí chủ yếu là lắp ráp gia công và sản xuất các phụ tùng đơn giản. Các đơn vị sản xuất đều nhỏ, máy móc thiết bị ít, phân tán. Sau năm 1975, ngành cơ khí gặp nhiều khó khăn, không có quy hoạch phát triển và chưa được đầu tư đúng mức. Giá trị gia tăng ngành công nghiệp cơ khí trong GDP của thành phố chỉ chiếm 3,7%. Cơ cấu trong nội bộ ngành cơ khí cũng không hợp lý, chủ yếu là cơ khí sản xuất hàng tiêu dùng, còn cơ khí cao cấp như cơ khí chế tạo, cơ khí chính xác chiếm tỷ trọng rất nhỏ bé. Do thiếu đầu tư cho nên tốc độ đổi mới thiết bị rất chậm. Từ năm 1996 đến nay chỉ khoảng 20% thiết bị được đổi mới, trong đó 10% thiết bị hiện đại, nhìn tổng thể, công nghệ ngành cơ khí lạc hậu so với các nước trong khu vực từ 20 đến 30 năm, thậm chí 50 năm. Công suất thiết bị sử dụng thực tế chỉ 20 - 30%. Tiêu hao nhiên liệu tốn gấp hai lần so thiết kế. Năng suất lao động bằng 2% mức trung bình của thế giới.
Nguồn nhân lực, nhất là đội ngũ công nhân trình độ cao còn thiếu. Các doanh nghiệp cơ khí quy mô nhỏ bé lại thiếu liên kết chặt chẽ với nhau vì vậy thua thiệt trước sự cạnh tranh gay gắt ngay trên thị trường nội địa.
Cơ khí là nền tảng của kinh tế quốc dân, tạo tiền đề cho CNH, HÐH, là ngành công nghiệp then chốt. Ngành cơ khí yếu kém tất yếu sẽ gây khó khăn cho ngành công nghiệp khác. Nhưng nhận thức về vị trí, vai trò của ngành cơ khí trong nền kinh tế quốc dân cho đến nay vẫn chưa đầy đủ, chưa sâu sắc. Ý thức tự lực tự cường, quyết tâm phát triển toàn diện ngành cơ khí thành phố để góp phần cùng cả nước phát triển công nghiệp cơ khí mạnh trong tương lai vẫn chưa được thể hiện trong chương trình quốc gia và thành phố. Vì thế suốt gần 30 năm qua kể từ ngày thành phố được giải phóng ngành cơ khí vẫn chưa thật sự có quy hoạch trong tổng thể quy hoạch công nghiệp nói chung. Do đó ngành cơ khí chưa được đầu tư đúng mức, đúng tầm về vốn, về các nguồn lực, đồng thời các chính sách phát triển cũng chưa được quan tâm đầy đủ để vực dậy ngành kinh tế quan trọng này. Doanh nghiệp cơ khí của khu vực đầu tư nước ngoài cũng chỉ là lắp ráp xe máy, cơ khí tiêu dùng, chưa có cơ sở chế tạo máy móc thiết bị phục vụ các ngành kinh tế quốc dân, nhất là phục vụ sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản. Hậu quả là ngành cơ khí còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong công nghiệp thành phố và nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với các nước khu vực đã rõ.
Tình trạng cát cứ, chia cắt, không có sự tập hợp và rất khó chuyên môn hóa sâu và hợp tác hóa rộng cũng là một nguyên nhân làm giảm hiệu quả đầu tư, giảm sức cạnh tranh của sản phẩm, kìm hãm sự phát triển công nghiệp cơ khí. Khác với nhiều ngành công nghiệp khác, ngành cơ khí thuộc loại phức tạp nhất, đòi hỏi tổng hợp nhiều nguồn lực nhưng trong thực tế nguồn lực vốn, lao động đã ít ỏi lại phân tán, chưa biết kết hợp tận dụng nội lực để phát triển. Mô hình tổ chức công nghiệp cơ khí thành phố chưa hợp lý vừa cắt khúc, vừa đầu tư dàn trải cũng là một nguyên nhân cản trở sự phát triển của ngành. Quản lý nhà nước về công nghiệp, trong đó có công nghiệp cơ khí cũng còn cắt khúc chưa có cơ chế quản lý phối hợp giữa trung ương và địa phương cho nên thành phố nhiều năm nay rơi vào tình trạng lúng túng ngay từ khâu quy hoạch phát triển ngành đến khâu đầu tư và phát triển sản phẩm.
Giải pháp nào để phát triển ngành cơ khí?
Dựa trên đặc điểm, lợi thế, tiềm năng và nhu cầu thị trường, trước hết là vùng Nam Bộ, TP Hồ Chí Minh hoàn toàn có thể phát triển ngành công nghiệp cơ khí chế tạo ở một bước cao hơn so với hoạt động lắp ráp hiện nay.
Ngành cơ khí TP Hồ Chí Minh không thể tự phát triển khép kín mà phải phát triển trong mối liên kết giữa công nghiệp cơ khí thành phố với công nghiệp cơ khí ở các địa phương trong vùng trọng điểm kinh tế phía nam và toàn bộ khu vực Ðông Nam Bộ. Cơ khí thành phố là một mắt xích quan trọng trong chiến lược phát triển cơ khí vùng và cả nước, phải được tạo điều kiện phát triển ngang tầm với vị trí và vai trò của mình.
Ðể phục vụ công cuộc CNH, HÐH đất nước, trước hết phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho vùng Nam Bộ thì bản thân ngành cơ khí TP Hồ Chí Minh phải được hiện đại hóa ngang tầm các nước trong khu vực. Ðể phù hợp quy hoạch cơ khí tổng thể của vùng và cả nước, dựa trên lợi thế của thành phố thì công nghiệp cơ khí thành phố cần tập trung đầu tư phát triển vào ngành cơ khí cao cấp như chế tạo phôi, cơ khí chính xác, tạo khuôn mẫu, cơ khí chế tạo máy, sản phẩm cơ điện tử và tự động hóa. Quy luật chung trong đầu tư cơ khí là một đồng vốn đầu tư bỏ ra bình quân đưa lại một đồng giá trị sản lượng mỗi năm. Vì vậy vốn đầu tư là yếu tố quan trọng hàng đầu nhưng lại là khó khăn nhất của sự phát triển. Ðầu tư vào ngành cơ khí đòi hỏi vốn rất lớn chậm có lãi và thời gian thu hồi vốn dài do đó ít hấp dẫn đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước. Vì vậy phải có chính sách vĩ mô đặc biệt để thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển cơ khí. Trong đó Nhà nước cần đầu tư trực tiếp một số doanh nghiệp trọng điểm. Huy động tổng hợp các nguồn vốn thông qua việc thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp cơ khí. Trước mắt và lâu dài tìm mọi cách huy động nguồn vốn trong nước để phát triển ngành cơ khí. Chỉ có như vậy mới biến các nguồn vốn đó thành năng lực tiềm tàng sức mạnh nội sinh của ngành kinh tế, thật sự làm chủ công nghệ sản phẩm và mới có một bước tiến dài đi trước đón đầu.
Ði liền với đầu tư cơ sở vật chất là phải coi trọng đúng mức đầu tư vào nhân tố con người đào tạo nguồn nhân lực, thích ứng cơ khí công nghệ cao không chỉ thành thạo điều hành những thiết bị công nghệ truyền thống mà quan trọng là phải có một đội ngũ lao động biết sử dụng thiết bị tự động hóa, vi tính hóa.
Khi xác định ngành công nghiệp mũi nhọn thì nhất thiết phải có các chính sách bảo đảm cho sự phát triển đó. Do đó Nhà nước cần có chính sách về thuế, về đất đai và các chính sách đòn bảy khác hỗ trợ công nghiệp cơ khí phát triển.
Công việc cần làm ngay là tăng cường quảng cáo, thông tin công khai về khả năng sản xuất của các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp cơ khí của thành phố, vùng kinh tế trọng điểm phía nam và cả nước để có quyết sách đầu tư không trùng lắp, kích thích việc mua bán sản phẩm cơ khí, khuyến khích chuyên môn hóa và hợp tác hóa trong lĩnh vực sản xuất các sản phẩm cơ khí.
Sau khi có chương trình phát triển cơ khí thì quan trọng hơn cả là tổ chức thực hiện, nhanh chóng xác định các dự án then chốt, cụ thể cần đầu tư bao gồm đầu tư của thành phố và đầu tư của trung ương, khâu nào cần xã hội hóa đầu tư, xác định các sản phẩm cụ thể trong lộ trình phát triển cơ khí thành phố, xác định thời gian thực hiện các dự án để định kỳ có thể "lượng hóa" được sự tiến bộ của chương trình này. Ðồng thời cũng kiến nghị những chính sách tín dụng cần thiết, cơ chế ưu đãi về vốn, đất đai, cơ chế tổ chức quản lý Nhà nước, cơ chế điều hành phối hợp giữa trung ương và địa phương, giữa TP Hồ Chí Minh và các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam để tạo điều kiện cho ngành công nghiệp nói chung và ngành cơ khí nói riêng của thành phố phát triển nhanh, bền vững.