1. Sự cần thiết mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội
a) Thực trạng phát triển của Thủ đô Hà Nội:
Nghị quyết 15-NQ/T.Ư ngày 15-12-2000 của Bộ Chính trị và Pháp lệnh Thủ đô ngày 28-12-2000 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ rõ: Thủ đô Hà Nội là trái tim của cả nước, đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị khóa IX, Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo quy hoạch và đầu tư xây dựng Vùng Thủ đô Hà Nội bao gồm phạm vi không gian thành phố Hà Nội và 7 tỉnh trong vùng tại Quyết định số 118/2003/QÐ-TTg ngày 11-6-2003 của Thủ tướng Chính phủ.
Thông báo số 43/TB-VPCP ngày 2-3-2004 của Văn phòng Chính phủ theo ý kiến kết luận của Trưởng Ban Chỉ đạo - lúc đó là Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Tấn Dũng đã đặt ra mục tiêu và những nhiệm vụ cụ thể cho Ðề án Quy hoạch xây dựng Vùng Thủ đô Hà Nội nhằm tìm ra những bất cập, mâu thuẫn trong quá trình phát triển, khai thác các tiềm năng và giải quyết các tồn tại, cũng như đặt vấn đề tăng cường liên kết về không gian kinh tế giữa các đô thị trong Vùng Hà Nội. Thủ đô Hà Nội được xác định là thành phố hạt nhân trung tâm trong hệ thống các đô thị cấp tỉnh của Vùng tạo thành hệ thống đô thị đủ mạnh - liên kết hỗ trợ trong quá trình phát triển toàn Vùng theo diện rộng, không chỉ đóng khung bó hẹp theo khuôn khổ hành chính của từng tỉnh như hiện nay. Trong quá trình hình thành và phát triển gần nghìn năm lịch sử, Thăng Long - Hà Nội luôn đóng vai trò của một thành phố đa chức năng, có sức hút và tác động phát triển rộng lớn đối với quốc gia và khu vực Bắc Bộ, là thành phố có đóng góp lớn cho nền kinh tế của cả nước (năm 2007 đóng góp GDP của Hà Nội gần 10%, của toàn vùng trên 21%). Thủ đô Hà Nội hiện đang giữ vai trò là một trung tâm kinh tế - hạt nhân phát triển cùng với các đô thị lớn của Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và Vùng Hà Nội tạo thành một chùm đô thị lớn làm động lực thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Sau những năm xây dựng và phát triển, đặc biệt từ khi có Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị và Pháp lệnh Thủ đô của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bên cạnh những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội mà do lợi thế của một thành phố đa chức năng mang lại, những năm gần đây, Thủ đô Hà Nội đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, bất cập trong quá trình phát triển. Cụ thể là:
- Tốc độ xây dựng hệ thống hạ tầng không tương xứng với tốc độ đô thị hóa rất cao (chỉ trong hơn 15 năm, từ 4 quận nội thành với diện tích 40 km2, hiện nay đã là 9 quận nội thành, diện tích 178,78 km2, tăng gấp gần 4,5 lần so với năm 1991; dân số toàn thành phố từ 2,128 triệu (1991), hiện nay 3,457 triệu, tăng 1,48 lần; tính riêng cho nội thành từ 0,975 triệu (1991) - đến nay đã là 1,968 triệu, tăng 2,02 lần). Từ những năm 1990 khi thực hiện chính sách đổi mới của Ðảng, khu vực nội thị được mở rộng từ 57 km2 lên 102 km2 cho thấy sự bùng nổ về dân cư, nhu cầu hạ tầng và nhà ở của Thủ đô cũng như sự xuất hiện nhanh chóng các khu đô thị mới đang dần hình thành trong và ngoài vành đai xanh của Hà Nội một cách manh mún, thiếu định hướng quy hoạch chung trong chiến lược phát triển nhà ở.
- Dân số tăng nhanh trong Vùng, đặc biệt là dân số vãng lai ở Hà Nội đã lên đến 2 triệu lượt người so với hơn 3 triệu dân thường trú dẫn đến việc giảm sút chất lượng đô thị trong khu vực nội đô, quá tải trong hệ thống hạ tầng kỹ thuật (ví dụ như diện tích ở trung bình khoảng 10m2/người so với Tokyo là 27,2 m2/người; tỷ lệ cấp nước chỉ đạt hơn 60%; tỷ lệ thu gom rác thải tuy đạt 84% nhưng chủ yếu là chôn lấp, mật độ đường rất thấp 1,2 km/km2, các đường vành đai 2, 3 chưa hoàn chỉnh cộng với các nút giao thông chính kết nối đối ngoại và đối nội chủ yếu là giao bằng; thiếu các trục đại lộ đẹp và đủ rộng, diện tích giao thông trên diện tích đất xây dựng đô thị chỉ chiếm khoảng 7% so sánh với Tokyo là 18,8%; tỷ lệ đất dành cho giao thông tĩnh chỉ chiếm 0,5% so với yêu cầu là 3% đất xây dựng đô thị; tỷ lệ vận tải khách công cộng chỉ đạt khoảng 7% chưa đạt so với tiêu chuẩn tối thiểu (10%);...). Ðể giải quyết vấn đề giao thông của khu vực nội đô Hà Nội sẽ đòi hỏi nhiều giải pháp xây dựng hệ thống giao thông khác cốt đa tầng, tàu điện ngầm, tuyến giao thông dành cho xe bus - tàu điện chạy nhanh với chi phí giải phóng mặt bằng, cải tạo và xây dựng quá lớn khó có khả năng đáp ứng yêu cầu xây dựng hoàn chỉnh được hệ thống giao thông hiện đại và hoàn chỉnh nếu không có những giải pháp dãn tải ra khu vực chung quanh.
- Hệ thống hạ tầng xã hội không đáp ứng nhu cầu dịch vụ. Số giường bệnh/1.000 dân là 1,8 so với chỉ số trung bình trên thế giới là 8 - 15 cho thấy tuy số lượng bệnh viện mặc dù đã lên tới 31 bệnh viện nhưng vẫn không đáp ứng nhu cầu phục vụ không chỉ cho Hà Nội mà cho cả các tỉnh trong Vùng và cả miền bắc; chỉ tiêu về điều kiện sống ở các quận, huyện Hà Nội với chỉ tiêu quốc gia và quốc tế đều ở mức khá thấp. Mong muốn xây dựng một trung tâm lớn, có uy tín về đào tạo giáo dục trong khu vực khó đáp ứng tuy rằng tại Hà Nội có tới hơn 100 trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề với số lượng sinh viên lên tới gần 56 vạn người, tương đương dân số đô thị loại II và trong tương lai sẽ còn đông hơn nữa. Nhưng thực chất, các cơ sở giáo dục đào tạo này hầu hết đều chỉ tập trung tại các cơ sở cũ, diện tích nhỏ hẹp, thiếu những công trình phục vụ như thư viện, công trình thể thao hiện đại, các khu ký túc xá đủ điều kiện tiêu chuẩn quốc gia/khu vực. Các trường đại học ở Hà Nội đều có nhu cầu mở rộng diện tích lên đến 350 ha, do ranh giới và diện tích của Hà Nội có giới hạn nên phải bố trí ở phía Tây Nam nơi có nhiều dự kiến xây dựng tổ hợp hành chính Thủ đô, các công trình của quốc gia như Trung tâm Hội nghị Quốc gia, khu liên hợp thể thao Mỹ Ðình, sẽ tập trung số lượng người hoạt động trong một khu vực quá lớn. Khu vực trung tâm của Hà Nội cũng chưa có những Trung tâm Văn hóa lớn có tầm cỡ quốc gia và khu vực.
- Môi trường sống của người dân Hà Nội đang trở nên chật chội, không bảo đảm những chỉ tiêu về điều kiện sống như: chỉ tiêu cây xanh công viên toàn thành phố chỉ chiếm 5,54 m2/người, nhưng khu vực nội đô tỷ lệ này giảm chỉ còn 0,9m2/người nếu so sánh với Tokyo là 3 m2/người, London là 26,9 m2/người, chỉ tiêu về các dịch vụ văn hóa, nghỉ ngơi, khu vực vui chơi cho trẻ em, người già đều rất thấp nếu so với các thủ đô các quốc gia trong khu vực.
- Thiếu quỹ đất cho xây dựng những dự án lớn mang tầm cỡ quốc gia và khu vực, như xây dựng các Khu công nghệ cao, xây dựng Trung tâm Hội chợ triển lãm Quốc gia, Làng văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, các khu vui chơi giải trí, thể thao, văn hóa lớn tầm cỡ quốc tế...
- Các khu công nghiệp tập trung không có quy hoạch trên diện rộng, chủ yếu bám sát các trục quốc lộ nối với trung tâm Hà Nội đang có xu hướng thắt nút các hướng vận tải từ trung tâm, ách tắc trên các tuyến quốc lộ. Toàn Vùng có hơn 26 khu công nghiệp tập trung với gần 5.000 ha và có hơn 200 cụm - điểm công nghiệp quy mô nhỏ phân bố rải rác trong các vùng nông nghiệp, đã đóng góp trên 20% tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn quốc, trong đó một số tỉnh như Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên và Hà Nội là những địa phương có mức tăng trưởng công nghiệp nhanh; đặc biệt phải kể đến số lượng lớn các làng nghề thủ công truyền thống phân bố tập trung tại Hà Tây cũng như ở các tỉnh phía Nam và Ðông của Vùng. Do chưa có phân công bố trí các khu công nghiệp trên diện rộng, cho nên ngay ở Hà Nội cũng có các khu công nghiệp vừa và nhỏ, rất manh mún. Các cụm/điểm công nghiệp vừa và nhỏ do bố trí rải rác nên có nguy cơ gây ô nhiễm cho toàn Vùng. Các khu công nhân chưa được nghiên cứu bố trí phù hợp cũng gây phức tạp trong việc quản lý tập trung và di chuyển tới chỗ làm.
- Ngành thương mại - dịch vụ đang thiếu chiến lược phân bố hợp lý, tuy ngành này đang có tỷ trọng trên 40% tổng GDP toàn vùng Thủ đô, tập trung chủ yếu các hoạt động thương mại dịch vụ tại Hà Nội, gắn với các đầu mối giao thông quốc gia, quốc tế và các trung tâm du lịch. Tốc độ tăng giá trị các ngành dịch vụ bình quân hằng năm đạt khoảng 10%. Nhưng với vai trò là trung tâm giao thương, Hà Nội đang có những khó khăn về cơ sở vật chất khi mọi nguồn hàng đều tập trung vào ngay giữa trung tâm thành phố, thiếu không gian cho những trung tâm phát luồng đầu mối cho toàn Vùng, các trung tâm này không gắn với đầu mối giao thông chính nên gây thêm ách tắc giao thông trong quá trình hoạt động, kém hiệu quả.
- Xu hướng đô thị hóa dịch chuyển về hướng Tây và Ðông, không theo ý tưởng phát triển lên phía bắc. Theo quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2020 (Quyết định số 108/1998/QÐ-TTg), khu vực phía Bắc hiện nay dự kiến hình thành đô thị mới, nhưng do việc kết nối hạ tầng với vùng phía tây và đông thuận tiện hơn, không phải qua sông Hồng nên xu hướng đô thị hóa lại phát triển nhanh và mạnh hơn ở phía tây và phía đông vì nhiều thuận lợi về đất đai, hạ tầng và thuận lợi về giao thương. Vì vậy, chủ trương không phát triển mạnh đô thị lên phía bắc để gìn giữ không gian tự nhiên của Sóc Sơn, đầm Vân Trì cùng hệ thống đầm, sông và kênh rạch tự nhiên dành cho phát triển du lịch sinh thái, nhà vườn và một số công trình đầu mối giao thông kết nối với sân bay Quốc tế Nội Bài là hợp lý. Bên cạnh đó việc mở rộng địa giới hành chính còn phải bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh.
- Nhiều dự án đầu tư tại các tỉnh chung quanh Hà Nội đang làm cho thị trường nhà đất có khả năng rơi vào tình trạng khó khăn, như các dự án xây dựng Khu đô thị mới ở thành phố Hà Ðông, Khu đô thị mới An Khánh, Làng văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, các khu du lịch vui chơi giải trí cuối tuần của người dân Thủ đô như Ðồng Mô, Tam Ðảo, Ðại Lải, Ba Vì hay các khu nhà ở mới tại khu vực giáp ranh giữa Bắc Ninh và Hà Nội, khu đô thị mới Văn Giang ở Hưng Yên hay các khu Ðại siêu thị Mê Linh Plaza và các khu nhà ở biệt thự tại Mê Linh, v.v... cho thấy các dự án trên đã tính toán nhu cầu sử dụng chủ yếu phụ thuộc vào thị trường vốn và người tiêu dùng từ Hà Nội.
Do vậy, tuy Hà Nội và các địa phương trong vùng có được tốc độ phát triển cao, nhưng có thể đánh giá khái quát một vài điểm lớn như:
- Sự phát triển quá tải và không đồng đều, tự phát theo từng tỉnh.
- Sự phát triển còn lãng phí đất đai và chưa cân đối nguồn lực đầu tư trên diện rộng, thiếu các công trình, dự án có tầm cỡ.
- Vai trò của một đô thị trung tâm, hạt nhân phát triển của thành phố Hà Nội còn hạn chế và thiếu chủ động.
- Sự phát triển thiếu các quy hoạch và chính sách kiểm soát Vùng.
b) Sự cần thiết mở rộng ranh giới hành chính Thủ đô Hà Nội:
Qua những bất cập trên, có thể thấy rằng với quy mô diện tích hiện tại, đến năm 2020, dân số đô thị Thủ đô Hà Nội và các đô thị chung quanh trong phạm vi nghiên cứu điều chỉnh Quy hoạch chung khoảng 4,5 đến 5 triệu người (theo Quyết định số 108/1998/QÐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2020) và sẽ lên tới khoảng 7-8 triệu trong vài chục năm tiếp theo. Nếu không chuẩn bị không gian đủ lớn cho một thành phố lớn theo các yêu cầu của Nghị quyết 15 Bộ Chính trị và Pháp lệnh Thủ đô thì chắc chắn Hà Nội và Vùng chung quanh sẽ không có quỹ đất đủ cho quy mô của một đô thị hiện đại cho hàng trăm năm sau. Những giải pháp xây dựng quá tập trung với các tòa nhà cao tầng, hệ thống đường khác cốt đa tầng vào khu nội đô sẽ dẫn đến nguy cơ phá hủy những không gian riêng biệt của Hà Nội vốn rất đẹp với các di sản kiến trúc, không gian mặt nước, cây xanh hiện nay và tình trạng ùn tắc giao thông sẽ ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Những nhiệm vụ đặt ra trong Nghị quyết 15 như: "Hà Nội cần phải bảo đảm kinh tế Thủ đô có nhịp độ tăng trưởng cao, ổn định, với cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển công nghiệp có chọn lọc và ưu tiên phát triển công nghệ cao trong các lĩnh vực sinh học, thông tin cơ khí - tự động hóa, công nghệ ứng dụng và sử dụng công nghệ mới, phát triển nâng cao trình độ chất lượng các ngành dịch vụ, ưu tiên đầu tư giáo dục - đào tạo. Nghị quyết cũng chỉ rõ Hà Nội phải đi đầu trong đào tạo nhân tài và nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước, đặc biệt phấn đấu trở thành một trung tâm đào tạo có uy tín ở khu vực" cho thấy với diện tích hiện nay khó có thể xây dựng Thủ đô trở thành một thành phố có tầm cỡ khu vực và thế giới, bảo đảm cho sự phát triển bền vững, lâu dài.
Hơn nữa, so sánh với vị thế của Thủ đô Hà Nội đã xác định trong Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 29/2000/PL-UBTVQH10 ngày 28-12-2000: "Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước; là nơi đặt trụ sở của các cơ quan Trung ương của Ðảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế và là nơi diễn ra các hoạt động đối nội, đối ngoại quan trọng nhất của đất nước", Thủ đô Hà Nội khó có thể đáp ứng được mô hình đa chức năng, những mục tiêu xây dựng, phát triển của Thủ đô đã ghi trong Pháp lệnh Thủ đô với ranh giới hiện nay.
Chính phủ đã đặt trọng tâm xây dựng phát triển Thủ đô phải gắn kết với hệ thống hạ tầng kỹ thuật của Vùng Hà Nội và Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ cũng như hệ thống hạ tầng quốc gia. Việc đồng ý mở rộng nâng cấp sân bay quốc tế Nội Bài, xây dựng hệ thống đường sắt và đường bộ cao tốc Bắc Nam, xây dựng vành đai vùng Thủ đô (vành đai 4, vành đai 5), khuyến khích các công trình cấp nước vùng, xây dựng khu xử lý chất thải rắn liên vùng,... đã chứng minh tầm quan trọng của Hà Nội trong toàn Vùng, không thể chỉ phát triển Thủ đô trong tầm nhìn ranh giới hiện tại. Tính cấp thiết phải nghiên cứu mở rộng Thủ đô đã được đặt ra khi quá trình nhận diện những bất cập trong quá trình phát triển và so sánh với những mục tiêu phát triển lâu dài và bền vững đã đặt ra trong Nghị quyết 15 và Pháp lệnh Thủ đô.
2. Về quá trình lập Quy hoạch Vùng Thủ đô và nghiên cứu mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội
Ban Chỉ đạo Quy hoạch và Ðầu tư xây dựng Vùng Thủ đô Hà Nội dưới sự chỉ đạo và điều hành của các Trưởng Ban Chỉ đạo từ Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Tấn Dũng trước đây, Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng và nay là Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã nhiều lần nghe báo cáo, trao đổi và tiếp tục chỉ đạo đề án nhằm đạt được những mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, khớp nối với các quy hoạch trong Vùng kinh tế trọng điểm, quy hoạch kinh tế xã hội Vùng đồng bằng Sông Hồng và các quy hoạch chuyên ngành khác.
Gần sáu năm kể từ khi chuẩn bị nhiệm vụ, tiến hành nghiên cứu Ðề án Quy hoạch xây dựng Vùng Hà Nội đã được các chuyên gia của Bộ Xây dựng cùng với sự giúp đỡ trực tiếp của các chuyên gia quy hoạch Vùng Ile de France (Cộng hòa Pháp) và chuyên gia quy hoạch Vùng Melbourne của Australia phối hợp xây dựng theo kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn của Việt Nam. Từ những năm 2004 - 2007, Quy hoạch xây dựng Vùng Hà Nội đã được nghiên cứu, trao đổi qua hơn 20 cuộc Hội thảo trong nước và quốc tế có sự tham gia của các Bộ, ngành, các địa phương trong Vùng, có sự tham gia đóng góp của nhiều nhà khoa học, các chuyên gia của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, JICA, KOIKA, ADB và nhiều tổ chức quốc tế khác.
Tại nhiều quốc gia phát triển và đang phát triển nơi có dân số Thủ đô hơn 5 triệu dân trở lên phần lớn đều tiến hành nghiên cứu quy hoạch Vùng Thủ đô và thành lập các cơ quan quản lý cấp Vùng như Vùng Bangkok (Thailand), Vùng Kuala Lumpur (Malaysia), Vùng Tokyo (Nhật Bản), Vùng Manila (Philippines) hay Vùng Ile de France (Vùng Paris - Cộng hòa Pháp), Vùng Seoul (Hàn Quốc) v.v... Qua kinh nghiệm nước ngoài, tùy theo bối cảnh chính trị - trình độ kinh tế văn hóa khác nhau, nhiều quốc gia đã đặt vấn đề mở rộng Thủ đô khi khu đô thị cũ không còn đáp ứng những đòi hỏi phát triển, thí dụ như Thủ đô của Brazil đã được mở rộng thêm Brazilia bên cạnh San Paulo hay thủ đô Kuala Lumpur (Malaysia) cũng đã bố trí riêng biệt thành phố mới Putrajaya dành cho khu hành chính của chính quyền trung ương và thành phố khoa học và Cyberjaya. Chính phủ Hàn Quốc cũng quy hoạch thành phố Daejeon hành chính đa chức năng mới phía Nam Hàn Quốc, nơi chủ yếu dành cho cơ quan chính phủ và các khu chức năng mới của Thủ đô. Một số quốc gia có chính quyền Vùng như Cộng hòa Pháp, thường sử dụng mô hình phát triển đô thị vệ tinh (nằm trong Vùng được kiểm soát) chung quanh Thủ đô cũ. Theo các chuyên gia quốc tế, mô hình thể chế hành chính của Việt Nam do không có cấp hành chính quản lý Vùng, chủ yếu thông qua mô hình các Ban Chỉ đạo nên khó kiểm soát thật sự tình hình phát triển tại các địa phương, dẫn đến việc Thủ đô ngày càng bị các dự án công nghiệp, khu đô thị mới vây quanh.
- Ðề án Quy hoạch Vùng Hà Nội đã chỉ ra không gian hiện tại không đáp ứng được tốc độ đô thị hóa - sức hút đầu tư và tăng dân số của Hà Nội. Vì vậy, có thể nói với tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao hằng năm, ngày càng thu hút nhiều dự án đầu tư về nhà ở, văn phòng, thương mại, dịch vụ trong không gian trung tâm hiện tại của Hà Nội đã dẫn đến nhiều bất cập về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, cũng như theo quy hoạch sử dụng đất trong Quy hoạch chung xây dựng Hà Nội đến năm 2020, khi triển khai thực hiện nếu chỉ cố gắng tìm những giải pháp về công tác quản lý đô thị mà không có phương hướng nghiên cứu về khả năng mở rộng không gian địa giới của Thủ đô.
Xuất phát từ phân tích tình hình thực tế phát triển sau gần 15 năm qua, đề án Quy hoạch Vùng Thủ đô Hà Nội đã kiến nghị cần thiết phải mở rộng ranh giới hành chính Thủ đô Hà Nội.
Mở rộng ranh giới để Thủ đô Hà Nội phát triển với những ý tưởng trong Quy hoạch Vùng, bảo đảm diện tích, quy mô dân số cho Hà Nội phát triển bền vững trong giai đoạn trước mắt và tương lai lâu dài, tạo điều kiện cho Hà Nội phát triển toàn diện, xứng đáng là trung tâm chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước trong quá trình hội nhập là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh hiện nay.
3. Lựa chọn phương án mở rộng địa giới Thủ đô Hà Nội:
a) Tiêu chí lựa chọn:
Việc nghiên cứu mở rộng địa giới hành chính Thủ đô đòi hỏi những cân nhắc, lựa chọn dựa trên nhiều dữ kiện, tiêu chí, yêu cầu phát triển, tầm nhìn phát triển và khả năng thực hiện ý tưởng, cũng như năng lực bộ máy điều hành quản lý đô thị.
Về quy mô dân số của Hà Nội dự kiến từ 10 - 12 triệu dân, chiếm dưới 10% dân số cả nước.
Các nhà khoa học nhiều ngành đã tham gia Ðề tài nghiên cứu về Phát triển Thủ đô nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội do Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội tổ chức cũng đã có những so sánh tỷ lệ giữa dân số thủ đô (theo từng mô hình chức năng là Thủ đô đa năng hay thuần túy là hành chính - chính trị) trên dân số quốc gia của một số nước trong khu vực (như: Bangkok (Thái Lan) là 9,83%, Tokyo (Nhật Bản) là 9,8%, Kuala Lumpur (Malaysia) là 5,2%, Manila (Philippine) là 1,89%, nhưng Seoul (Hàn Quốc) có tỷ lệ vượt trội là 21% với số dân Thủ đô gần 10 triệu) cùng những lập luận khoa học khác và đưa ra nhận định, kết luận về sự cần thiết và nhu cầu mở rộng không gian đô thị - hành chính cho Hà Nội.
- Tầm nhìn đến năm 2050:
Thủ đô Hà Nội mở rộng quy hoạch tới năm 2030 và hướng tới tầm nhìn 2050 là Thủ đô trung tâm hành chính chính trị quốc gia, một trung tâm lớn về văn hóa - khoa học - đào tạo - kinh tế, trung tâm du lịch và giao dịch quốc tế, một đô thị hiện đại, năng động và hiệu quả, có tầm khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
- Những tiêu chí cần thiết khi lựa chọn các phương án mở rộng:
Trên cơ sở mong muốn lựa chọn được quy mô và diện tích thích hợp nhằm xây dựng Thủ đô Hà Nội như trong Tầm nhìn, các chuyên gia đã xác định một số tiêu chí cơ bản mà địa giới Thủ đô sau khi mở rộng cần được đáp ứng như sau:
1) Phù hợp với các định hướng phát triển Vùng Hà Nội;
2) Quy mô dân số Thủ đô và các đô thị trong vùng;
3) Các khu vực có khả năng phát triển công trình đầu mối hạ tầng, phát triển các dự án quốc gia lớn gắn với Thủ đô trong đầu tư và hoạt động lâu dài;
4) Phù hợp về các điều kiện địa lý - lịch sử - văn hóa truyền thống;
5) Khu vực mở rộng cần có quỹ đất đủ lớn để xây dựng một số khu chức năng của Thủ đô, các đô thị - khu đô thị mang tính chất vệ tinh để giảm áp lực vào khu vực nội thành truyền thống;
6) Có thể phát triển các vành đai xanh, không gian mở, phát triển các vùng thực phẩm, rau quả tươi, phục vụ các đô thị trong Vùng;
7) Lựa chọn các khu vực đô thị cận kề đã có thời gian gắn kết chặt chẽ về giao thông, hoạt động đô thị và kinh tế thuận lợi đối với việc điều chỉnh lại địa giới hành chính;
8) Ổn định nhanh, không gây xáo trộn lớn về cơ cấu hành chính cho nhiều địa phương chung quanh;
9) Thời cơ, vận hội của Thủ đô và đất nước.
b) Phân tích lựa chọn phương án mở rộng:
Trên cơ sở nội dung Quy hoạch xây dựng Vùng Thủ đô và các tiêu chí lựa chọn, ranh giới mở rộng của Thủ đô Hà Nội được đề xuất theo các hướng phát triển không gian có các phương án mở rộng theo các hướng khác nhau, rộng hẹp khác nhau. Trong khi nghiên cứu, các chuyên gia đã đề xuất 5 phương án, sau đó các phương án này được đánh giá theo tiêu chí trên cơ sở định tính, định lượng và cho điểm để so sánh. Dựa vào các phân tích đánh giá toàn diện về địa lý, địa chất, hiện trạng sử dụng đất, văn hóa lịch sử,... của từng địa phương chung quanh Hà Nội, có 5 phương án như sau:
- Có ba phương án được nghiên cứu theo hướng mở rộng đều về các phía, cụ thể Phương án 3 gồm thành phố Hà Ðông, hai huyện Ðan Phượng, Hoài Ðức (Hà Tây) và Mê Linh (Vĩnh Phúc) với diện tích là 1.260 km2, Phương án 4 gồm thành phố Hà Ðông, hai huyện Ðan Phượng, Hoài Ðức (Hà Tây), huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc), huyện Từ Sơn (Bắc Ninh), huyện Văn Giang, Văn Lâm (Hưng Yên) với diện tích 1.451 km2, Phương án 5 gồm thành phố Hà Ðông, bốn huyện Ðan Phượng, Hoài Ðức, Thanh Oai, Thường Tín (Hà Tây), huyện Mê Linh, thị xã Phúc Yên (Vĩnh Phúc), huyện Từ Sơn, Thuận Thành (Bắc Ninh), huyện Văn Giang, Văn Lâm (Hưng Yên) với diện tích 1.964 km2.
+ Nhìn chung, các phương án này có diện tích tương đối nhỏ và có ranh giới hành chính liền kề với Hà Nội. Khu vực dự kiến sáp nhập này đã có nhiều dự án xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị mới, sân golf, điểm du lịch và các khu đầu mối giao thông lớn đã gần lấp đầy có thể tạo ra diện mạo đô thị nhanh chóng trong vài năm sắp tới.
+ Mở rộng theo phương án này thì không có diện tích đất dự trữ cho phát triển. Những diện tích dành co vành đai xanh, các công viên mở dành cho người dân, khu vực trồng rau - hoa vốn là nét đẹp của Thủ đô chắc chắn sẽ bị sức ép của các khu đô thị đang lang tỏa nhanh chóng ra vùng giáp ranh Hà Nội và các tỉnh. Hơn nữa, việc lấy đều về các hướng thì hầu hết các tỉnh chung quanh đều có biến động về địa giới, gây nên xáo trộn lớn về mặt xã hội và việc sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính.
- Có một phương án được nghiên cứu chủ yếu dựa vào diện tích đất Hà Tây trước đây đã thuộc về Hà Nội là Phương án 2 gồm thành phố Sơn Tây, huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Ðan Phượng, Hoài Ðức, có bổ sung thêm thành phố Hà Ðông, huyện Quốc Oai và 4 xã của huyện Lương Sơn (Hòa Bình) với diện tích 2.247,32km2.
+ Phương án mở rộng này chủ yếu vẫn phát triển về phía Tây, là nơi có nhiều quỹ đất thuận tiện cho phát triển, không ảnh hưởng lớn đến quỹ đất nông nghiệp đang bị thu hẹp nhiều ở vựa lúa đồng bằng Bắc Bộ do quá trình đô thị hóa và phát triển công nghiệp. Phần lớn diện tích mở rộng chủ yếu là diện tích của Hà Nội trước đây (giai đoạn 1978 - 1991) cho nên khá thuận lợi về phong tục tập quán, lối sống và nhận thức của người dân Vùng này. Diện tích dành để mở rộng tương đối đủ để tạo được một không gian của Thủ đô mới.
+ Tuy nhiên theo phương án này, phần diện tích và dân số tỉnh Hà Tây còn lại tương đối nhỏ và hầu hết đều là các huyện thuần nông, sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển. Ngoài ra còn có khó khăn khi phải lựa chọn một địa điểm mới làm tỉnh lỵ, đòi hỏi khối lượng đầu tư lớn do nhiều cơ sở hạ tầng Hà Tây đã xây dựng chủ yếu tập trung vào khu vực Hòa Lạc và một số huyện dự kiến sáp nhập vào Hà Nội. Vị trí tỉnh lỵ mới cũng hơi khó đáp ứng được tiêu chí một trung tâm tỉnh lỵ do lệch về địa hình, hạ tầng quá yếu kém.
+ Hơn nữa, các huyện còn lại của tỉnh Hà Tây không phải là vùng trù phú cho nên tỉnh Hà Tây sau khi chia tách sẽ gặp nhiều khó khăn trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội.
- Phương án đề xuất chọn (Phương án 1) được nghiên cứu trên cơ sở diện tích Hà Nội hiện nay, mở rộng thêm tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc) và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn (Hòa Bình). Diện tích tự nhiên 3.334,47km2, dân số 6.232.940 người có 29 đơn vị hành chính quận, huyện.
+ Phương án này có nhiều ưu điểm nổi trội vì Hà Nội mới sẽ có một không gian đủ lớn để phát triển lâu dài, không chỉ 20 - 30 năm mà còn cả trong tương lai xa. Hà Nội có thể trở thành một Thủ đô lớn mạnh đầy đủ các ưu thế tiềm năng phát triển, đáp ứng mọi yêu cầu về đất đai, dân số và các cơ sở hạ tầng chủ yếu. Ðặc biệt là tạo được, kiểm soát được một không gian phía Tây có môi trường trong lành, cảnh quan đẹp, đất đai rộng rãi không ảnh hưởng đến đất nông nghiệp theo đúng Quy hoạch Vùng Thủ đô Hà Nội đã xác định là hướng cần bảo vệ môi trường cho Thủ đô về lâu dài. Hướng này không dành phát triển các khu công nghiệp sản xuất mà chỉ dành cho phát triển các dự án có quy mô quốc gia - quốc tế như Khu công nghệ cao Hòa Lạc (trên cơ sở hợp nhất 2 Khu công nghệ cao Hòa Lạc cũ và Khu công nghiệp Bắc Phú Cát), Khu đại học quốc gia, Làng văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Khu đô thị mới phía Tây, các khu du lịch nghỉ mát quanh núi Ba Vì, hồ Suối Hai... cũng như các khu vực Quan Sơn - Chùa Hương và là nơi có thể được lựa chọn làm Trung tâm hành chính Quốc gia mới. Nhanh chóng hình thành được các đô thị đã có lịch sử phát triển lâu đời như Sơn Tây, Hà Ðông cũ như đô thị Xuân Mai trước đây đã dự kiến phát triển thành thành phố.
+ Khu vực phía Tây đóng vai trò cửa ngõ an ninh quan trọng gắn Thủ đô với không gian rừng núi trung du Tây Bắc khá thuận lợi cho việc triển khai các phương án bảo vệ Thủ đô.
+ Mặt khác, phương án này có sự thay đổi về hành chính tương đối gọn do điều chỉnh hoàn toàn theo ranh giới huyện - tỉnh. Về cơ sở hạ tầng đô thị thuận lợi, gần nguồn nước, nguồn điện, đặc biệt hệ thống giao thông vành đai và trục Láng - Hòa Lạc đang trở thành trục đô thị lớn nhất nước liên kết tốt nhất giữa Hà Nội và hệ thống tầng bậc các đô thị phát triển chung quanh.
+ Về quá trình lịch sử với phong tục tập quán, dân trí, mức sống của người dân vùng được mở rộng cũng phù hợp theo nếp sống của một đô thị vì một phần khu vực này cũng đã thuộc Hà Nội.
+ Khu vực thuộc huyện Mê Linh - trước đây đã thuộc Hà Nội (giai đoạn 1978-1991) đã có thời gian phát triển nhờ lợi thế vị trí sát đường cao tốc Nội Bài và có diện tích đan xen với các xã thuộc Ðông Anh (Hà Nội). Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt đô thị Mê Linh với ý tưởng là khu đô thị mới gắn với các khu công nghiệp phía Bắc Hà Nội - Ðông Vĩnh Phúc. Trong thực tế, vùng đất nông nghiệp thuộc huyện này đã chuyển mô hình canh tác sang trồng rau, trồng hoa cung cấp chủ yếu cho Hà Nội khi diện tích ở khu vực Nhật Tân - Phú Thượng đã chuyển đổi thành đất đô thị.
+ Khu vực bốn xã thuộc huyện Lương Sơn (Hòa Bình) là một vùng thung lũnh khá đẹp nằm sát chân núi Ba Vì, có địa hình dốc nghiêng về hướng Hòa Lạc là khu vực kém phát triển chủ yếu canh tác lúa 1 vụ và đang có một số kế hoạch phát triển công nghiệp và đô thị - du lịch. Các xã Ðông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung sau này sẽ được sáp nhập vào các huyện liền kề và sẽ được quy hoạch trong chuỗi đô thị Sơn Tây - Hòa Lạc - Xuân Mai và trong tương lai sẽ nằm trong không gian của Khu hành chính quốc gia mới trong khu Hòa Lạc và trục đô thị Láng - Hòa Lạc và làm điểm nối kết quan trọng cửa ngõ với thành phố Hòa Bình.
+ Qua việc rà soát các dự án, quy hoạch trên địa bàn dự kiến mở rộng Hà Nội cho thấy tính khả thi là rõ ràng khi thực hiện phát triển mở rộng Thủ đô. Nhiều nhà đầu tư đã sẵn sàng phối hợp cùng với Chính phủ để cùng xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật. Cần nhấn mạnh thêm, nguồn vốn xây dựng đô thị không chỉ dựa vào nguồn vốn ngân sách nhà nước như quan điểm nền kinh tế tập trung trước đây, các chuyên gia nghiên cứu đô thị chỉ ra nguồn lực xây dựng không ở đâu xa mà dựa vào chính nguồn lực từ tài nguyên đất đai và có sự hỗ trợ, khuyến khích của Nhà nước thông qua các cơ chế, chính sách dành riêng cho việc xây dựng Thủ đô để có thể thu hút nguồn lực trong và ngoài nước, cũng như đầu tư trực tiếp vào các dự án trọng điểm quốc gia, đầu tư vào khu vực dịch vụ công.
+ Hơn hết là việc mở rộng ranh giới đòi hỏi đi đôi với công tác tổ chức cán bộ từ việc sắp xếp lại bộ máy quản lý hệ thống đô thị của cả một vùng rộng lớn gấp ba lần ranh giới Hà Nội trước đây càng đặt ra các yêu cầu mới, đòi hỏi trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý đô thị phải đủ tầm quản lý Thủ đô mới.
+ Trong quá trình nghiên cứu, cũng có ý kiến cho rằng việc sáp nhập Hà Tây và Thành phố Hà Nội sẽ làm mất đi một đơn vị hành chính cấp tỉnh và sẽ làm mất đi nét văn hóa xứ Ðoài của Hà Tây. Tuy nhiên, các chuyên gia quy hoạch cho rằng việc chia, tách hay điều chỉnh địa giới hành chính của một quốc gia trong quá trình phát triển là việc làm bình thường. Ở nước ta cũng đã thực hiện nhiều lần việc điều chỉnh địa giới ở cấp tỉnh. Riêng đối với Thủ đô Hà Nội cũng đã có hai lần điều chỉnh địa giới hành chính. Thực tế cho thấy, qua những lần điều chỉnh địa giới hành chính đó, nét văn hóa của các dân tộc, các địa phương vẫn duy trì được bản sắc của mình mà không bị pha loãng, mai một đi.
Sau khi phân tích, so sánh năm phương án mở rộng và đưa vào hệ thống tiêu chí - định lượng, cho điểm, Ban cán sự Ðảng Chính phủ đã xem xét và đồng ý lấy ba phương án có số điểm cao nhất báo cáo Bộ Chính trị để lựa chọn và chuẩn bị báo cáo Ban Chấp hành Trung ương. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 khóa X (tháng 1-2008) đã bàn về chủ trương mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội và khẳng định: Hà Nội là trái tim của cả nước, trung tâm đầu não về chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học - kỹ thuật, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế, cần thiết phải có quy mô phù hợp, bảo đảm cho sự phát triển bền vững, lâu dài. Việc mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội phải đáp ứng đầy đủ các chức năng và vị thế của một thủ đô hiện đại; phù hợp với định hướng quy hoạch phát triển vùng Hà Nội, phù hợp với các điều kiện địa lý - lịch sử - văn hóa truyền thống. Ban Chấp hành Trung ương đã cho ý kiến về vấn đề này, giao Bộ Chính trị chỉ đạo thực hiện theo đúng trình tự và quy định của pháp luật, trình Quốc hội xem xét, quyết định. Hội nghị cũng đã thảo luận kỹ 2 phương án hợp lý nhất và Phương án 1 đã được thống nhất chấp thuận trình ra Quốc hội để xem xét, quyết định.
Quá trình nghiên cứu, cân nhắc việc mở rộng hết sức cẩn thận, kỹ lưỡng; cố gắng tránh những biến động không có lợi cho người dân địa phương, bảo đảm tính gắn bó lịch sử, văn hóa và sự thuận lợi trong tìm kiếm việc làm và sinh hoạt của dân. Qua báo cáo cũng như nắm bắt tâm tư, nguyện vọng nhân dân rất đồng tình ủng hộ chủ trương mở rộng địa giới hành chính.
4. Về định hướng Quy hoạch xây dựng Thủ đô Hà Nội mở rộng trong tương lai
a) Một số yêu cầu chủ yếu đặt ra khi nghiên cứu định hướng Quy hoạch xây dựng Thủ đô Hà Nội mở rộng:
Ðể thúc đẩy sự phát triển bền vững của Thủ đô Hà Nội mở rộng, một số yêu cầu chủ yếu đặt ra cho Thủ đô Hà Nội là:
- Yêu cầu xây dựng Thủ đô Hà Nội trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập và nền kinh tế thị trường, trở thành một đô thị hoạt động có hiệu quả, bền vững, có tính cạnh tranh cao, phát triển những trung tâm đô thị đủ lớn cho Vùng Thủ đô và Quốc gia.
- Yêu cầu hướng phát triển trên toàn lãnh thổ Hà Nội mở rộng, phát triển và đầu tư có trọng tâm theo các dự án chức năng hoàn chỉnh và bảo toàn sự phát triển của từng địa bàn trong phạm vi mở rộng.
- Yêu cầu xây dựng hình ảnh của Hà Nội, một đô thị có lịch sử, văn hóa truyền thống, cảnh quan, kiến trúc đặc trưng, phát triển và bảo tồn được sự riêng biệt.
- Yêu cầu kiểm soát sự gia tăng dân số tập trung vào trung tâm, mở rộng không gian để xây dựng các đô thị chung quanh nhằm giữ được quy mô dân số trong khu vực trung tâm cũ và phát triển đồng đều tại các đô thị vệ tinh chung quanh.
- Yêu cầu quản lý đô thị theo mô hình chính quyền đô thị, tự chủ và phân quyền hợp lý cho các đô thị trực thuộc nhằm tạo năng động trong công tác quản lý đô thị và thu hút đầu tư.
- Yêu cầu cải thiện chất lượng đô thị, bảo đảm điều kiện sống cao hơn trước với những chỉ tiêu về diện tích ở và diện tích cây xanh, các chỉ tiêu kỹ thuật về diện tích giao thông, cấp điện, cấp nước, cũng như khả năng tiếp cận tiện ích đô thị, cây xanh, giao thông, môi trường phải tương ứng với các thủ đô/thành phố ở các nước phát triển có mô hình đô thị hiện đại và bền vững. Trên cơ sở các chỉ tiêu này cần tập trung xây dựng hệ thống giao thông đô thị và các hệ thống hạ tầng kỹ thuật khác hiện đại, hoàn chỉnh và đồng bộ.
b) Mục tiêu và định hướng phát triển không gian:
- Các mục tiêu phát triển không gian chủ yếu:
Nhiệm vụ chính của Quy hoạch xây dựng Thủ đô Hà Nội mở rộng là đề xuất những ý tưởng quy hoạch lớn, những định hướng phát triển cho không gian Thủ đô Hà Nội, các mô hình, định hướng sử dụng và phát triển đất đai đô thị cho Hà Nội và các khu vực mở rộng, các vùng ngoại vi và nông thôn. Cụ thể như sau:
1) Xây dựng Thủ đô Hà Nội mở rộng trở thành một tổng thể đa trung tâm, có cấu trúc hoàn chỉnh hiện đại, gồm đô thị trung tâm chính và các thành phố vệ tinh trong vùng ngoại vi mở rộng, tạo các cực phát triển mới đảm đương các chức năng lớn của yêu cầu phát triển của Quốc gia và Thủ đô.
2) Quy hoạch phát triển Thủ đô Hà Nội mở rộng như một tổng thể không gian phát triển năng động, các khu vực phát triển tập trung, hòa nhập và nâng cao giá trị các vùng địa lý cảnh quan tự nhiên sông hồ - đồi núi và lịch sử văn hóa đặc trưng.
3) Hình thành Thủ đô Hà Nội mở rộng theo hướng là một tổng thể bền vững, phát triển hiệu quả trong sử dụng đất đai theo hướng bảo vệ tài nguyên môi trường và bảo tồn các vành đai nông nghiệp, rau quả phục vụ đô thị. Xây dựng và phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật cho Hà Nội kết hợp với Vùng Hà Nội theo hướng hiện đại, đồng bộ đáp ứng không chỉ cho giai đoạn 2030-2050 mà còn các thế hệ tiếp nối.
Ðể thực hiện ba mục tiêu phát triển chính trên, cần có những định hướng phát triển không gian nhằm đạt được ý tưởng đề xuất trong các mục tiêu, thể hiện trên không gian đô thị và đưa vào các dự án thực hiện nhằm bảo đảm tính khả thi.
- Các định hướng phát triển không gian chủ yếu như sau:
Hình thái không gian đô thị của Hà Nội mở rộng sẽ theo hướng Hà Nội hiện nay là đô thị hạt nhân và gắn kết với các đô thị vệ tinh lớn bằng hệ thống đường đô thị hiện đại kết hợp với giao thông công cộng chạy nhanh (hệ thống UMRT, ví dụ như xe bus chạy nhanh, đường sắt nội vùng kết hợp với hệ thống metro trong nội thị) như Ðô thị Sơn Tây - Ðô thị Hòa Lạc - Ðô thị Xuân Mai theo từng chức năng riêng biệt tạo thành chùm đô thị lớn của Vùng nhằm đáp ứng mô hình Hà Nội mới sẽ đủ vị thế của một đô thị lớn đủ sức cạnh tranh trong hệ thống đô thị khu vực châu Á và Thái Bình Dương. Những định hướng phát triển không gian của chùm đô thị này như sau:
1) Ðô thị trung tâm/thành phố Hà Nội, chủ yếu phía Nam sông Hồng, trung tâm chính trị - ngoại giao của quốc gia; tập trung các hoạt động thương mại - giao dịch quốc gia - quốc tế và trung tâm du lịch - bảo tồn đô thị lịch sử của Hà Nội cũ dự kiến và một phần phát triển mới.
2) Lựa chọn các khung giao thông để phát triển các vùng mới, các trung tâm đô thị mới tạo mối liên hệ hợp lý giữa đô thị trung tâm với vùng mở rộng và liên kết với các hành lang giao thông lớn/đại lộ của quốc gia và Vùng Hà Nội.
3) Phát triển các cực đô thị mới có đủ quy mô và cấu trúc đô thị hoàn chỉnh (300 ngàn dân - 500 ngàn dân vào năm 2030), xây dựng hiện đại, đủ điều kiện thu hút đầu tư tập trung và đa dạng, tạo cơ hội việc làm và quỹ nhà ở để thu hút phát triển dân cư.
4) Lựa chọn phân bổ các vùng không gian các vành đai chức năng dựa trên các yếu tố tự nhiên đặc trưng nhất.
5) Cải tạo, bảo tồn tôn tạo đô thị cũ, nâng cao các giá trị văn hóa, lịch sử và bản sắc đô thị; lựa chọn và bảo tồn một số khu vực làng nghề đặc trưng trong vùng nông nghiệp.
6) Tạo các vành đai nông nghiệp - nông thôn vùng ngoại thị giữa các khu vực phát triển tập trung, như các vành đai xanh đô thị, cải thiện môi trường đô thị.
7) Xác định nguồn quỹ đất xây dựng để đề xuất giới hạn đô thị và các giải pháp sử dụng đất hiệu quả.
8) Khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn nước sạch trong vùng phục vụ phát triển dân cư/đô thị và các vùng vành đai xanh/nông nghiệp.
9) Tổ chức hệ thống cây xanh đô thị (các đại công viên - lâm viên), các vùng tự nhiên rau xanh, sông ngòi, đê điều và vùng thoát lũ, phòng chống thiên tai của hệ thống sông Hồng - sông Nhuệ - Ðáy - Tích theo hướng sử dụng là vùng bảo vệ thiên nhiên, tạo môi trường xanh cho đô thị.
- Ðịnh hướng phát triển khung hệ thống hạ tầng kỹ thuật hiện đại - đồng bộ, kết hợp với hệ thống hạ tầng quốc gia và Vùng:
Thủ đô Hà Nội mở rộng cần được xây dựng trên cơ sở bộ khung hạ tầng kỹ thuật hiện đại - theo diện rộng kết nối hợp lý và hiệu quả với hệ thống hạ tầng trong Vùng Thủ đô Hà Nội và các Vùng khác ở phía bắc, cả nước và Khu vực, đáp ứng cho việc phát triển lâu dài, bền vững cho các thế hệ lịch sử tiếp nối.
Việc nghiên cứu mở rộng địa giới Thủ đô gắn với quá trình gần 6 năm nghiên cứu Quy hoạch Vùng Thủ đô Hà Nội kể từ khi Chính phủ giao nhiệm vụ và triển khai nghiên cứu, phê duyệt. Ðây là một quá trình nghiên cứu kỹ lưỡng, có sự kết hợp của các Bộ, ngành và địa phương cũng như có sự tham gia của các chuyên gia tư vấn quốc tế và các nhà khoa học trong nước thông qua việc trao đổi, cùng nghiên cứu, hội thảo trong và ngoài nước cũng như có sự thẩm định khách quan của các Hội nghề nghiệp, chuyên gia độc lập quốc tế. Việc nghiên cứu mở rộng địa giới gắn với Quy hoạch Vùng Hà Nội cũng nhằm tới mục tiêu là xây dựng Thủ đô theo đúng tinh thần Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị và Pháp lệnh Thủ đô đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
Sau khi được Quốc hội thông qua việc mở rộng ranh giới hành chính Thủ đô Hà Nội, Chính phủ chủ trương sẽ mời các chuyên gia quy hoạch quốc tế hàng đầu thế giới kết hợp với tư vấn chuyên gia quy hoạch đô thị trong nước thực hiện một đề án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đúng tầm cỡ, đáp ứng cho việc xây dựng Thủ đô Hà Nội mở rộng theo đúng mong muốn của Ðảng, Nhà nước, của người dân Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. Dự kiến thời gian lập Quy hoạch chung xây dựng Hà Nội mở rộng sẽ được hoàn thành vào khoảng cuối năm 2009 và được phê duyệt vào đúng dịp Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Quy hoạch chung này sẽ đáp ứng mục tiêu lớn của Ch