Vấn đề cơ bản của Bộ luật Tố tụng dân sự

Về hoà giải và chuẩn bị xét xử

Đối với các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, trong thời hạn bốn tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án (TA) phải ra một trong bốn quyết định: Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; Tạm đình chỉ giải quyết vụ án; Đình chỉ giải quyết vụ án; Đưa vụ án ra xét xử. Đối với những vụ án phức tạp hoặc do trở ngại khách quan, thời hạn này được kéo dài nhưng không quá hai tháng. Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại, lao động thì thời hạn là hai tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, TA phải đưa ra một trong bốn quyết định nói trên. Với nhũng vụ án phức tạp hoặc do trở ngại khách quan, thời hạn trên được kéo dài nhưng cũng không được quá một tháng.

Trong trường hợp có quyết định đưa vụ án ra xét xử, thì trong thời hạn là một tháng kể từ ngày có quyết định đó, TA phải mở phiên tòa xét xử. Trong trường hợp có lý do chính đáng, thời hạn trên được kéo dài là hai tháng. So với các quy định của Pháp lệnh tố tụng hiện hành (PLTTHH), thời hạn chuẩn bị xét xử của các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình không có gì thay đổi. Đối với các tranh chấp về kinh doanh, thương mại, lao động, thời gian chuẩn bị xét xử quy định dài hơn so với PLTTHH. Ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, một vấn đề cần lưu ý là việc gia hạn thời gian chuẩn bị xét xử thuộc thẩm quyền của chánh án TA nơi giải quyết vụ án; Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án không được tự ý gia hạn thời gian chuẩn bị xét xử.

Nguyên tắc, thủ tục hoà giải

BLTTDS quy định chín điều (từ Điều 180 đến 188) về nguyên tắc thủ tục và nội dung cửa hòa giải. Theo đó, hòa giải là thủ tục tố tụng bắt buộc trước khi mở phiên toà xét xử sơ thẩm, trừ những trường hợp vụ án dân sự không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được. Đối với trường hợp tại phiên toà sơ thẩm và phúc thẩm, HĐXX được phép hỏi các bên đương sự có thỏa thuận với nhau được hay không về việc giải quyết vụ án. Nếu các bên thỏa thuận được thì HĐXX công nhận sự thỏa thuận đó.

Quy định này của BLTTDS có khác hơn so với PLTTHH. Trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, trong quá trình giải quyết vụ án, TA tiến hành hòa giải trước khi xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Còn Pháp lệnh tố tụng lao động quy định TA tiến hành hòa giải trước khi mở phiên toà sơ thẩm và trước khi xét xử tại phiên tòa.

Việc hòa giải giữa các bên đương sự trong vụ kiện phải tôn trọng sự tự nguyện, thỏa thuận của các bên; không được dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực để buộc đương sự khác phải thỏa thuận phù hợp với ý chí của bên còn lại; nội dung thỏa thuận không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội.

Trước khi tiến hành buổi hòa giải, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ kiện phải thông báo cho các bên đương sự biết về thời gian, địa điểm, nội dung các vấn đề cần hòa giải. Đây là một quy định mới của BLTTDS so với PLTTHH. Việc thông báo này sẽ giúp cho các bên đương sự chuẩn bị kỹ hơn nội dung hòa giải và là một trong những yếu tố giúp cho buổi hòa giải thuận lợi hơn. Trong BLTTDS cũng quy định cụ thể và rõ ràng về thành phần tiến hành hòa giải. Người chủ trì phải là thẩm phán được phân công giải quyết vụ kiện; Thư ký TA chỉ là người ghi biên bản hòa giải. Quy định này nhằm tránh xảy ra tình trạng Thẩm phán đùn đẩy việc hòa giải cho thư ký như đã từng xảy ra trong thời gian vừa qua.

Khi tiến hành hòa giải, phải có mặt các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ; nếu đương sự không biết tiếng Việt thì phải có người phiên dịch. Trong một vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt, Thẩm phán vẫn có thể tiến hành hòa giải nếu các đương sự có mặt đồng ý tiến hành hòa giải và việc hòa giải này không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trường hợp khi có đương sự vắng mặt mà các đương sự khác yêu cầu hoãn việc hòa giải, Thẩm phán phải hoãn phiên hòa giải. Việc hoãn này chỉ được chấp nhận một lần. Nếu lần tiếp theo mà đương sự đó vẫn vắng mặt thì Thẩm phán phải tiến hành hòa giải.

Trong trường hợp các đương sự có mặt không đồng ý tiến hành hòa giải thì Thẩm phán lập biên bản không hòa giải được Quy định này của BLTTDS là chặt chẽ và cụ thể hơn so với PLTTHH, tránh được tình trạng các đương sự cù nhầy, không đến hòa giải theo thông báo của Tòa, kéo dài thời gian việc giải quyết vụ án.

Thời hạn có hiệu lực của việc hòa giải thành

Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự, Tòa án phải có trách nhiệm gửi cho đương sự và VKS cùng cấp trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định đó. Quyết định công nhận sự thỏa thuận cửa các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành mà không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. Quyết định công nhận thỏa thuận chỉ có thể bị kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng việc thỏa thuận đó là do nhầm lẫn, đe dọa hoặc trái pháp luật đạo đức xã hội.

Quy định về công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong BLTTDS có khác PLTTHH. Trong Pháp lệnh Tố tụng kinh tế lao động quy định các đương sự thỏa thuận được việc giải quyết vụ án thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành và ra ngay quyết định công nhận sự thỏa thuận đó. Pháp lệnh Tố tụng dân sự quy định thời hạn ra quyết định công nhận sự thỏa thuận là 15 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành.

Điều 81. Những vụ án dân sự không được hòa giải:

1.Yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản của nhà nước.

2. Những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội.

Điều 182. Những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được

1. Bị đơn đã được TA triệu tập hợp lệ đến lần thử hai mà vẫn cố tình vắng mặt.

2. Đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng.

3. Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.

(Trích BLTTDS)

Có thể bạn quan tâm