Văn Lang làng cười

Văn Lang làng cười

Theo thần tích của làng, từ thời Hùng Vương thứ mười tám, một hôm các Quan Lang đi qua thấy phong cảnh nơi đây đẹp đẽ, đất tốt, đã khai dân lập ấp nên làng Văn Lang. Tên làng đặt theo tên nước Việt lúc ấy. Những câu chuyện về cuộc sống, sinh hoạt của người Văn Lang được gom góp lại trở thành kho truyện cười độc đáo. Củ sắn dắt vào cạp quần về đến nhà đã bở tung, rau dền to cao đến mức leo lên nhìn thấy cột cờ Hà Nội. Tự trào đến mức ấy, có lẽ chỉ có con người Văn Lang thôi.

Người dân Văn Lang, bằng trí thông minh và sự hài hước của mình đã khéo léo chuyển hóa những đề tài tưởng như rất đời thường, không có gì đáng nói là chuyện sắn, khoai... trở thành hấp dẫn, bởi thủ pháp gây cười bằng cách phóng đại, cách kết thúc bất ngờ, lời kể chuyện bằng ngôn ngữ đặc trưng, ngôn bản (giọng nói hơi nặng, khó nghe, đôi khi lại ề à, kéo dài phía cuối và hơi tưng tửng), rồi cách chọn môi trường diễn xướng, không gian nghệ thuật dân gian...

Câu ca dao "Văn Lang cả làng nói trạng" hay "Văn Lang cả làng nói khoác" từ đó xuất hiện ý chỉ nét văn hóa đặc trưng của một vùng quê văn hiến lưu giữ qua nghìn đời. Ðến nay, kho truyện cười Văn Lang khá phong phú.

Làng cười trên đất nước Việt Nam có nhiều. Có nhiều làng đã nổi danh đi vào ca dao như: Nói khoác Ðồng Sài; Trúc Ổ cả tổ nói khoác; Ðất Ðông An dựng cầu nói khoác; Ăn mặn kẻ Nét, nói phét Yên Từ; Hòa Làng ăn cơm rang nói phét; Hòa Làng nói phét có ca, Dương Sơn nói phét bằng ba Hòa Làng...

So với các làng cười khác trên cả nước, như chuyện trạng Vĩnh Hoàng ở Quảng Trị, Trúc Ổ, Dương Sơn, Ðồng Sài ở Bắc Ninh, truyện cười Văn Lang đa dạng hơn hẳn cả về đề tài và tính dí dỏm, hóm hỉnh.

Thống kê gần đây cho thấy truyện cười Văn Lang có 46 truyện với nhiều đề tài khác nhau. Những câu chuyện như Củ sắn qua đường 24, Khoai dẻo, Thuyền đu đủ, Tay ải tay ai, Con ếch cốm, Con vện, Bác mua đi "nỏ" lắm, Ðỉa trâu, Bưởi rụng chết trâu cà mới nghe đầu đề đã thấy thật thôn quê, dân dã. Nhưng khi nghe xong lại cười vui, tiếng cười sảng khoái, yêu đời. Cười vì:

Văn Lang có một con lươn
Thịt thì nướng chả còn xương đẽo cày.

Trong những nghệ nhân còn sống ở làng Văn Lang, người thuộc nhiều truyện nhất và kể chuyện có duyên nhất là cụ Hán Văn Sinh, năm nay đã 80 tuổi. Cụ Sinh từng vinh dự được đại diện làng Văn Lang thi kể chuyện cười trong cuộc thi của sáu tỉnh miền bắc tổ chức cách đây mấy năm. Một nhà văn người Bulgaria đã đến phỏng vấn cụ ở cuộc thi này. Sau khi nghe cụ kể, nhà văn này thốt lên: Truyện cười Gabrovo của Bulgaria đã nổi tiếng thế giới. Nhưng truyện cười Văn Lang lại có sức hấp dẫn và lôi cuốn riêng bởi tính giản dị và dí dỏm đến bất ngờ của kết cấu truyện.

Cụ Sinh dáng người nhỏ thó nhưng nói chuyện rất có duyên. Ðặc biệt trí nhớ của cụ còn rất tốt. Cụ kể chuyện hấp dẫn, có lẽ bởi thần thái và cách dẫn tài tình của cụ. Một điều ấn tượng nữa là cụ Sinh chính là bác họ của nghệ sĩ Hán Văn Tình. Có lẽ ký ức tuổi thơ của nghệ sĩ Hán Văn Tình đã thấm đẫm những truyện cười dân gian của làng Văn Lang. Nhờ đó mà nghệ sĩ có thể tạo ra tiếng cười rất sảng khoái đặc trưng của anh Chu Văn Quềnh, một kiểu cười đậm chất Văn Lang.

Câu chuyện cười mà ông Sinh rất thích nhắc đến khi đãi khách là truyện Củ sắn qua đường 24.

Truyện kể rằng, có chị nông dân nọ trên con đường từ rừng về nhà bỗng thấy con đường 24 A (con đường từ Cổ Tuyết, Tam Thanh đi Cẩm Khê) bị đứt ngang.  “Tiện  có  cuốc, có dao, đào theo đường nứt,  được  một củ sắn vừa dài vừa to. To thì bình thường thôi. Nó nhỉnh hơn bắp đùi em nhưng dài thì còn phải nói: đầu chồi thì ở đầu Văn Lang mà đuôi nó thì ở tận làng Cổ Tuyết, củ sắn to dài là thế nhưng sơ ý, lúc đào chẳng may nó bị gãy, vỡ ra làm nhiều khúc, cầm tay chẳng hết, em đành giắt vào cạp váy. Về đến nhà sắn nhét ở cạp váy không ngờ đã bở tung, nứt nở như quả dưa bở, thơm thì thơm lạ, thơm lùng. Thật em chẳng dám nói ngoa. Quả lê thơm đủ năm mùi, còn sắn làng em thì ối là mùi”...

Một truyện khác cũng khá hay mà cụ Sinh thường kể là truyện Củ khoai sọ. Truyện rằng nương khoai nhà bà Bốc cây cao, củ to. Ðến ngày thu hoạch, hai bà cháu gồng quang, sọt đi đào khoai. Cả nương khoai khóm nào cũng to. Hai bà cháu bổ nhát cuốc vào chỗ nào cũng thấy củ. Ðể khoai không bị sát, bà bảo cháu cuốc vầng rộng bằng cái nong đại. Cả hai bà cháu loay hoay đào cuốc đến hơn hai tiếng đồng hồ mới bênh được một khóm. Xung quanh củ cái chằng chịt những củ con. Riêng củ con cũng được một gánh nặng. Còn củ cái bổ tư cũng mỗi phần được một gánh, một khóm khoai đào sót cũng được đến dăm gánh, vì thế đến nay làng Văn Lang vẫn còn truyền nhau câu ca:

Văn Lang có một khóm khoai
Nhặt được hai gánh, thừa ba cái đầu.

Có thể bạn quan tâm