Để góp phần làm sáng tỏ tư tưởng của Người trên lĩnh vực này, bước đầu chúng tôi trình bày một số suy nghĩ và kiến nghị việc vận dụng những chỉ dẫn của Người trên bình diện phát triển và quản lý kinh tế, nhất là kinh tế đối ngoại trong bối cảnh toàn cầu hóa và chúng ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế được hình thành từ rất sớm. Khi chúng ta giành được chính quyền, bắt tay vào công cuộc kiến thiết và bảo vệ Tổ quốc, tư tưởng đó thể hiện ngày càng toàn diện và rõ hơn trong việc xây dựng và phát triển một nền kinh tế của nước Việt Nam độc lập. Người không dừng lại ở tư duy kinh tế đơn thuần, mà đòi hỏi một sự kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với những vấn đề chính trị, xã hội, với độc lập dân tộc, với đoàn kết quốc tế vì sự phồn vinh và phát triển mạnh mẽ của dân tộc.
Ngay tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu Kế hoạch kiến quốc, ngày 10-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích thấu đáo mối quan hệ giữa kháng chiến và kiến quốc. Thực chất đó là mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế, giữa bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc của mọi người dân Việt Nam trong xã hội mới.
Bác nói: "Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: 1 - Làm cho dân có ăn. 2 - Làm cho dân có mặc. 3 - Làm cho dân có chỗ ở. 4 - Làm cho dân có học hành"(2). Đó chính là mục tiêu của việc xây dựng và phát triển kinh tế của chúng ta.
Để thực hiện mục tiêu đó, Người chỉ rõ phải phát triển toàn diện kinh tế từ nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp tới phát triển dịch vụ, mở rộng giao lưu kinh tế với các nước khác, trước hết là các nước anh em. Theo Người, chỉ có như thế, chúng ta mới phát triển một cách chắc chắn được, sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của chúng ta thắng lợi mới càng thêm tin tưởng.
Những quan điểm của Người về phát triển kinh tế, mà ở đây là mở cửa, hội nhập, về việc các dân tộc phải có quan hệ hữu nghị và giao lưu trong phát triển, đã hình thành từ rất sớm, ngay từ khi còn bôn ba trên khắp thế giới, tìm con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tư tưởng đó của Người được hiện thực hóa, một cách cụ thể, sinh động, khi Người viết thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, trong đó đề nghị "được gửi một phái đoàn khoảng năm mươi thanh niên Việt Nam sang Mỹ... xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác" (3). Trong điều kiện khó khăn, gian khổ, và xiết bao công việc cần kíp của một quốc gia mới giành được độc lập, ý tưởng ấy của Người là sự thể hiện sinh động tầm vóc của một lãnh tụ thiên tài, có tầm nhìn xa trông rộng.
Chỉ sau đó ít lâu, trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc (1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công khai chính sách mở cửa hợp tác của Chính phủ Việt Nam trong nhiều lĩnh vực, trong đó vấn đề mở cửa về kinh tế được đặt lên hàng đầu. Người viết: "Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế. c) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc..."(4) Sau thành công của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ, một nửa nước Việt Nam đi vào xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, góp sức cùng nửa nước vẫn còn bị chia cắt sớm đi tới thống nhất. Thời kỳ này, các nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân lần lượt đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam, giúp đỡ chúng ta rất nhiều về của cải vật chất cũng như đội ngũ chuyên gia cho công cuộc xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh trang trọng ghi công những đóng góp to lớn đó của các nước anh em: "Quan hệ giữa Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam cũng như giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa là dựa trên nguyên tắc bình đẳng và tôn trọng chủ quyền của nhau, trên sự hợp tác anh em theo tinh thần quốc tế vô sản, cùng chung một lý tưởng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa... Nhân dân Việt Nam rất quý trọng tình hữu nghị của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác, vì nó góp phần bảo đảm thắng lợi cho nhân dân Việt Nam trong công cuộc xây dựng một đời sống mới và đấu tranh cho thống nhất Tổ quốc của mình".(5)
Với quốc gia từng là kẻ thù, Người tỏ rõ truyền thống hòa hiếu của dân tộc Việt Nam, khi nêu lên thiện chí: "Đối với nước Pháp, chúng tôi tiếp tục chủ trương rằng trong những điều kiện bình đẳng tuyệt đối và cùng có lợi, trước hết là tin cậy lẫn nhau và hợp tác thẳng thắn, chúng tôi có thể thiết lập những quan hệ đặc biệt về kinh tế và văn hóa với nước Pháp"(6). Sau đó, khi trả lời phóng viên người Anh, R. Xen-xpô, của báo Tin nhanh hằng ngày về việc liệu Việt Nam có định mở rộng quan hệ ngoại giao và nhất là thương mại đối với phương Tây không, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất quán với các chủ trương đối ngoại mở rộng của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, và nhấn mạnh: "Trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên cùng có lợi, chúng tôi sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao và thương mại với tất cả các nước".(7)
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược kinh tế mở được hình thành từ rất sớm. Cùng với thời gian và trước những thử thách khắc nghiệt của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước suốt mấy chục năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giữ vững quan điểm nhất quán, xử lý linh hoạt, đúng đắn mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế trong chính sách đối ngoại. Cuối những năm 60, lúc sinh thời, khi đánh giá về nguyên nhân những thắng lợi quan trọng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Người viết: "Nước ta: ở về xứ nóng, khí hậu tốt, Rừng vàng biển bạc, đất phì nhiêu. Nhân dân dũng cảm và cần kiệm. Các nước anh em giúp đỡ nhiều"(8). Những quan điểm đó đã giúp cho Việt Nam tranh thủ được sự ủng hộ rất lớn của các nước và nhân dân tiến bộ trên thế giới không chỉ về mặt chính trị, tinh thần, mà còn về kinh tế trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Để việc học tập, quán triệt và đặc biệt là vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong chính sách đối ngoại trong lĩnh vực kinh tế nói chung, ở đây là phương diện kinh tế đối ngoại nói riêng một cách hiệu quả, cần chú ý một số vấn đề chính sau:
Thứ nhất, xác định đúng mối quan hệ giữa chính sách đối ngoại và chính sách kinh tế đối ngoại.
Chính sách đối ngoại đúng đắn, rõ ràng là cơ sở chính trị để từ đó xây dựng chính sách kinh tế đối ngoại có hiệu quả. Do vậy, cần có sự gắn bó giữa chính sách đối ngoại với mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế. Với tinh thần đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ: "Tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi, mở rộng và tăng cường quan hệ quốc tế về chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học, kỹ thuật..."(9). Sự đúng đắn của những quan điểm đó đã được thực tiễn kiểm nghiệm, và tiếp tục được khẳng định và phát triển ở Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII), ở Đại hội VIII. Nhờ có những bước đi sáng suốt của Đảng, Việt Nam đã thành công trong quá trình đổi mới, phá được thế cô lập. Từ chỗ bị bao vây cấm vận, đến nay Việt Nam đã có quan hệ chính thức với gần hai trăm quốc gia trên thế giới, đã có tiếng nói trên các diễn đàn quốc tế đa phương và song phương, cả về chính trị cũng như về kinh tế. Đến Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực... Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường"(10).
Trên thực tế, chủ trương và thực hiện đường lối đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ và chủ động hội nhập quốc tế, trước hết là về kinh tế, nhằm tranh thủ cao độ ngoại lực để phát huy tối đa nội lực. Hai vấn đề này bổ sung cho nhau một cách biện chứng. Trong bối cảnh mới hiện nay, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra một cách mạnh mẽ, đan xen lẫn nhau, vừa có điều kiện thuận lợi, nhưng cũng vừa có nhiều mặt phức tạp, nên đòi hỏi cả hai mặt chính trị và kinh tế trong chính sách đối ngoại của Việt Nam phải được gắn chặt và xử lý một cách linh hoạt hơn nữa trên cơ sở giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thắng lợi về chính trị trong chính sách đối ngoại sẽ tạo cho chúng ta có tiếng nói riêng trên trường quốc tế và những thành quả đó suy cho cùng là để mở rộng quan hệ kinh tế, thu hút các nguồn lực từ bên ngoài, khai thác lợi thế so sánh của Việt Nam nhằm phục vụ sự phát triển kinh tế của đất nước. Có thể nói, việc xây dựng một chính sách đối ngoại đúng đắn, kết hợp hài hòa được cả hai mặt chính trị và kinh tế sẽ giúp Việt Nam khai thác tối đa được tiềm năng của đất nước, góp phần sớm hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vào năm 2020 như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ ra.
Thứ hai, hoạt động đối ngoại có vai trò quan trọng phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế.
Nghị quyết số 07/NQ-TW của Bộ Chính trị (khóa IX) Về hội nhập kinh tế quốc tế chỉ rõ: Các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài cần coi việc phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước là một nhiệm vụ hàng đầu. Hoạt động đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế cần được hiểu theo nghĩa rộng, tức là phát huy những thế mạnh riêng của toàn ngành đối ngoại vào công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Đối ngoại phục vụ kinh tế có nghĩa là định hướng hoạt động đối ngoại vào việc khai thác triệt để những thuận lợi và điều kiện từ các mối quan hệ quốc tế để làm lợi cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước.
Vì thế, hoạt động đối ngoại cần quan tâm tới mặt hiệu quả kinh tế và coi đây vừa là một nhiệm vụ trọng tâm, vừa là mục tiêu ưu tiên hàng đầu của toàn ngành ngoại giao trong giai đoạn hiện nay. Phải lấy kết quả thiết thực trong việc phục vụ phát triển kinh tế làm thước đo và tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả của hoạt động đối ngoại. Đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế thể hiện ở việc tranh thủ mọi nguồn ngoại lực cho quốc gia. Đây có thể được coi là một nhiệm vụ mới, rất quan trọng và nặng nề đặt ra đối với ngành đối ngoại Việt Nam. Mọi hoạt động đối ngoại cần phải nhằm phục vụ thiết thực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế nhanh và vững chắc. Hoạt động đối ngoại phải không ngừng quảng bá, cải thiện hình ảnh, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; bên cạnh đó, cần tăng cường các hoạt động có hiệu quả thiết thực trong các cơ chế, diễn đàn đa phương và song phương nhằm tìm kiếm đối tác và thị trường xuất khẩu, làm tốt vai trò trung gian, môi giới và làm cầu nối trong các hoạt động kinh tế, thúc đẩy hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khoa học, công nghệ, giáo dục. Tìm kiếm và mở rộng thị trường cũng là vấn đề quan trọng, bởi thị trường quyết định đến việc tiêu thụ sản phẩm cho mọi lĩnh vực sản xuất, kinh doanh dịch vụ, từ đó quyết định hướng đầu tư, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế chung. Để phát triển kinh tế đối ngoại, Việt Nam cần coi trọng và mở rộng cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.
Thứ ba, đa dạng hóa chính sách kinh tế đối ngoại là để phát huy tiềm năng kinh tế của đất nước.
Quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc mở rộng quan hệ kinh tế với các nước không phải chỉ nhằm nhận sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế để bù đắp sự thiếu hụt ở trong nước, mà chính là thông qua sự giúp đỡ đó để phát huy những tiềm năng, lợi thế của Việt Nam. Đó là quan điểm thu hút ngoại lực để phát huy nội lực của Người. Phát triển và vận dụng quan điểm đó, Đảng ta đã xác định rõ mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Vì thế, Việt Nam cần tạo lập, hoàn thiện môi trường để tạo những điều kiện thuận lợi cho việc mở cửa nền kinh tế trên các lĩnh vực và nhanh chóng hình thành đồng bộ hệ thống huy động vốn từ trong nước, cũng như thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn trong nước tạo ra nội lực làm cho nền kinh tế Việt Nam ổn định trước những biến động của thị trường thế giới và khu vực. Nhưng rất tiếc cho đến nay, chúng ta chưa có nhiều biện pháp cụ thể để huy động số vốn còn "nhàn rỗi" khá lớn trong dân cư một cách có hiệu quả.
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách kinh tế đối ngoại theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế.
Xu hướng quản lý hiện đại đòi hỏi hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách phải được xây dựng theo hướng chi tiết, cụ thể hóa, có thể điều chỉnh được các hành vi của xã hội. Mọi lĩnh vực hoạt động đều phải tuân theo pháp luật, tránh tình trạng luật pháp chỉ quy định chung chung, do đó phải kéo theo rất nhiều văn bản hướng dẫn thi hành luật khiến cho tình hình càng thêm phức tạp. Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại cũng vậy, nếu những quy định trong các bộ luật và luật vẫn cứ chung chung sẽ không những gây khó khăn cho các cơ quan quản lý của Nhà nước mà còn làm ảnh hưởng cả đến hoạt động đầu tư, thương mại, từ đó sẽ dẫn đến ách tắc trong hoạt động kinh doanh, làm mất thời gian, chi phí và cơ hội, dễ tạo điều kiện cho các hiện tượng tiêu cực phát triển. Cùng với việc có một bộ luật hoàn chỉnh, thông thoáng, bình đẳng, chặt chẽ, đồng bộ, nhất quán, minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; cần tiếp tục cải cách thể chế, bộ máy và thủ tục hành chính theo hướng gọn nhẹ, có hiệu lực, hiệu quả là những việc cấp bách để thu hút đầu tư nước ngoài trong bối cảnh hiện nay.
Thứ năm, tiếp tục nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút đầu tư nước ngoài.
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng tốt là điều kiện cần thiết để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Hệ thống giao thông, cầu cảng, hệ thống chuyển tải điện, hệ thống bưu chính, viễn thông, những khu công nghiệp tập trung đầy đủ điều kiện thuận lợi cho sản xuất sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Quy hoạch thu hút đầu tư phải xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quán triệt các quan điểm và định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế để hình thành ngành kinh tế trọng điểm và mũi nhọn. Từ đó, quy hoạch chi tiết giữa vốn đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, trên cơ sở đó xây dựng những danh mục sản phẩm gọi vốn đầu tư nước ngoài theo nhu cầu thực sự của đất nước. Công tác quy hoạch đúng đắn và hợp lý sẽ giúp chúng ta đầu tư đúng chỗ, tránh dàn trải, lãng phí và nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế.
Thứ sáu, xây dựng đội ngũ cán bộ kinh tế đối ngoại có phẩm chất chính trị vững vàng và trình độ chuyên môn giỏi đáp ứng lộ trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích của đất nước.
Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và đội ngũ công nhân lành nghề đủ sức đáp ứng nhu cầu hợp tác với nước ngoài đang là vấn đề cấp bách trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Cần chú trọng đào tạo đội ngũ các chuyên gia giỏi về kinh tế, kỹ thuật; có năng lực thẩm định; có khả năng thương thuyết với đối tác nước ngoài và am hiểu sâu sắc về luật pháp quốc tế. Nhanh chóng đào tạo cho được đội ngũ công nhân lành nghề trên nhiều lĩnh vực, đáp ứng được đòi hỏi của công nghệ mới rất đa dạng với nhiều nguồn gốc khác nhau. Ngoài năng lực chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp tốt, đội ngũ chuyên gia, cán bộ, công nhân phải có phẩm chất chính trị vững vàng, kiên định với đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta.
Tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế và trực tiếp là kinh tế đối ngoại đã, đang và sẽ là điểm tựa quan trọng để Đảng và Nhà nước ta hoạch định đường lối chiến lược phát triển kinh tế đất nước trong bối cảnh quốc tế mới. Lịch sử không ngừng đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi và tiếp tục dẫn dắt dân tộc ta tiến bước cùng thời đại trên con đường phát triển và tiến bộ xã hội.
---------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 83
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t 4, tr 152
(3) Hồ Chí Minh: Sđd, t 4, tr 80
(4) Hồ Chí Minh: Sđd, t 4, tr 470
(5) Hồ Chí Minh: Sđd, Hà Nội, 1996, t 8, tr 359-360
(6), (7) Hồ Chí Minh: Sđd, t 8, tr 58-59, 160
(8) Hồ Chí Minh: Sđd, t 10, tr 543
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr 61-62
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 120.