Sinh ư nghệ, tử ư nghệ
Cha chúng tôi ra đi ngay trước ngày 20 tháng 11, ngày Nhà giáo Việt Nam, cũng là ngày hội chung lớn nhất của đại gia đình chúng tôi, một gia đình có tất cả bố, mẹ, các con trai, con gái và dâu, rể đều là nhà giáo (chưa kể phần lớn các chú, các dì, các cậu là anh chị em của bố mẹ chúng tôi cũng làm nghề đi dạy).
Trước đây, trong niềm vui chung, ngày 20 tháng 11 hằng năm là ngày vui nhất của gia đình tôi với hoa tươi tràn ngập và ríu rít tiếng cười nói của từng đoàn học trò đến chúc mừng thầy cô chật ních cả nhà. Vậy mà ngày Nhà giáo năm ấy lại là một ngày đau buồn tột cùng của gia đình chúng tôi. Ðó là ngày 20 tháng 11 đầu tiên trong đời chúng tôi không có cha cùng đón nhận những bó hoa tươi thắm và những lời chúc tụng cho cái nghề cao quý mà cha tôi đã dành trọn cả cuộc đời. Nỗi đau càng thấm thía hơn khi hôm ấy vẫn có mấy người học trò cũ của cha tôi mang hoa tới tặng thầy. Tôi đã phải mấy lần vừa khóc vừa trả lời điện thoại của học trò của cha tôi ở mấy tỉnh phía nam gọi ra chúc lễ thầy, vì nhiều người vẫn chưa hay tin cha tôi vừa ra đi... Ðầu dây bên kia là những tiếng kêu thảng thốt, nghẹn ngào khi nghe tôi thông báo...
Ðã ba dịp 20 tháng 11 qua đi, không hiểu sao, trong thâm tâm tôi cứ ám ảnh điều này: Cha tôi - một nhà giáo, một người thầy đã dành trọn 50 năm của cuộc đời mình cho sự nghiệp trồng người, và ra đi đúng trước ngày 20 tháng 11, ngày của nhà giáo - phải chăng đây là định mệnh, là sự "sắp xếp" của tạo hóa để cho ông từ biệt cõi trần gian này tại thời điểm được "chốt" lại bằng chính cái ngày ý nghĩa nhất của cái nghề mà ông đã chọn? Nếu như trong nửa thế kỷ qua có những nhà giáo hết lòng với trò, tận tụy với nghề thì chúng tôi có thể tự hào rằng cha của chúng tôi là một người trong số đó. Khởi nghiệp sư phạm từ năm 1957 tại Trường đại học Sư phạm Hà Nội, năm 1959 về Vinh để cùng một số nhà giáo khác gây dựng trường đại học đầu tiên trên quê hương xứ Nghệ là ÐHSP Vinh. Sau hơn 40 năm gắn bó, năm 2000 ông lại được mời làm Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Trường ÐH Văn Hiến, TP Hồ Chí Minh. Nếu như không vì căn bệnh quái ác cướp đi sự sống thì cha của chúng tôi vẫn chưa chịu nghỉ ngơi theo đề nghị của vợ con, bởi, như ông đã nói, "được làm việc cũng là niềm vui, muốn làm việc vì mình vẫn có ích cho nhiều người".
Lúc sinh thời, cha tôi dạy Lý luận văn học. Nhiều thế hệ học trò của ông, nhiều năm sau khi đã tốt nghiệp ra trường, vẫn truyền nhau lòng ngưỡng mộ thầy Lê Bá Hán, dạy môn Lý luận văn học nhưng bài giảng của thầy không hề khô khan, trái lại rất hấp dẫn, sinh động. Những cựu sinh viên đã từng được cha tôi hướng dẫn làm luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ đều nhận xét: Tính thầy rất cẩn thận, tỉ mỉ, thầy yêu cầu trò phải làm việc nghiêm túc, bản thân thầy thì chẳng tiếc công sức và thời gian, chỉ bảo tận tình, đọc bản thảo sửa chữa cho trò từng ly, từng tý...
Chúng tôi gọi cha là Cậu, gọi mẹ là Mợ. Cậu Mợ tôi có bốn người con, một trai, ba gái, đều là GS, PGS, TS, giảng dạy ở các trường đại học trong và ngoài nước. Cả bốn chị em chúng tôi đã "nhiễm" lòng yêu nghề, yêu trò của cha mẹ một cách tự nhiên, cứ như là hưởng gen di truyền vậy. Dẫu một nửa theo nghề của mẹ - dạy toán, một nửa theo nghề của cha - dạy khoa học xã hội, nhưng tất cả chúng tôi đều được nhiều thế hệ học trò kính yêu, thán phục là những nhà giáo có tâm và có trí.
Sống làm người tử tế
Cha tôi là một người giàu lòng nhân ái, bản tính hiền hòa và rất tình cảm. Làm nghề dạy văn nên tâm hồn ông rất nhân hậu (mà cũng có thể vì bản tính ông như vậy nên nghề đã "chọn" ông). Với vợ và các con cháu, ông luôn dành tình thương yêu sâu nặng. Vào những năm 1980, khi những đứa con của ông bà đã trưởng thành và lần lượt đi xa, cậu tôi đã nhiều lần khóc thầm sau khi chia tay con cháu. Như vào một ngày tháng 7 năm 1981, sau khi chia tay tôi lên đường sang Liên Xô (cũ) học tập, trên xe ô-tô trở về Vinh, cậu tôi đã khóc rất nhiều (mãi sau này cậu tôi mới kể trong một lá thư gửi cho tôi); gia đình chị cả của chúng tôi là Lê Thị Hoài Châu có thời kỳ sống cùng ông bà ở Vinh, sau này chuyển vào TP Hồ Chí Minh. Tiễn mấy mẹ con chị vào Nam, cậu tôi thương nhớ mà viết thành thơ:
Con đi rồi, nhà bỗng rộng thênh
Quay mặt vào tường cậu nằm khóc mãi
Gia đình con vào nơi xa ngái
Giông bão cuộc đời, thương lắm con ơi!
Trong gia đình cậu tôi là người tình cảm như vậy, với bà con hay anh em đồng nghiệp, ông cũng luôn là người gần gũi, lúc nào cũng ôn tồn, nhẹ nhàng rất mô phạm. Suốt chục năm chiến tranh chống Mỹ, đưa vợ con cùng Trường Ðại học Sư phạm Vinh đi sơ tán ở miền núi, thôn quê, đến đâu tôi cũng thấy cậu của chúng tôi được các ông bà nông dân nơi sơ tán kính trọng, gần gũi. Ông hòa đồng với cuộc sống của người dân lao động rất tự nhiên, chân tình.
Từ tháng 8-2000 cậu mợ tôi chuyển vào sống ở TP Hồ Chí Minh, công tác tại Trường ÐH Văn Hiến. Chặng đường từ nhà ở quận Tân Phú đến trường khá xa, thời tiết thì nắng, nóng quanh năm. Cậu tôi thường đến trường bằng xe ôm do anh Bảo ở gần nhà chở. Nhiều lần mợ tôi và chúng tôi đều khuyên ông nên đi ta-xi cho bảo đảm sức khỏe, nhưng ông vẫn không nghe. Chúng tôi cứ nghĩ là do tính ông tiết kiệm nên đi xe ôm cho đỡ tốn kém. Sau khi cậu tôi đã mất, mợ tôi mới kể, có lần mợ tôi cố thuyết phục ông đi làm bằng ta-xi, cậu tôi nhỏ nhẹ nói: "Không phải tôi tiếc tiền đâu, nhưng hoàn cảnh nhà thằng Bảo khó khăn lắm, cả nhà trông chờ vào cái nghề xe ôm của nó, tôi đi thế này thì nó có thêm thu nhập". Nghe mợ tôi kể, tôi thấy thương cậu tôi đến xót xa, và cảm phục ông vô cùng. Tôi cũng tự trách mình, là con của ông nhưng chúng tôi cũng chưa thể hiểu hết được cái cao cả trong con người ông...
Thế nhưng ở Ðại học Sư phạm Vinh, cậu tôi cũng nổi tiếng là người khảng khái, ngay thẳng. Hình như đã trải qua nhiều vất vả, mất mát rồi, nên ông đã chọn cho mình một lẽ sống: làm một người tử tế. Người tử tế là người, như ông đã từng dạy các con của ông, sống có nhân cách, có lòng tự trọng, lấy chữ Tâm làm đầu, thương yêu mọi người, không xu nịnh, không làm điều ác... Tất nhiên cậu mợ tôi không dùng nhiều lời lẽ để dạy dỗ các con, nhưng bản thân lối sống của cha mẹ chúng tôi đã là tấm gương cho tất cả các con của ông bà noi theo một cách tự nhiên như cơm ăn, áo mặc hằng ngày. Và đến lượt chúng tôi lại dạy con mình như thế.