Dự án trên thuộc Chương trình tài trợ các dự án nhỏ tại Việt Nam (GEF SGP) của Quỹ Môi trường toàn cầu có mục tiêu giảm thiểu những tác động của nghề nuôi tôm đến môi trường sinh thái vùng ven bờ và ngược lại, góp phần vào sự phát triển bền vững vùng ven biển Việt Nam.
Nhiều vùng nuôi tôm bị ô nhiễm môi trường phải bỏ hoang do không xử lý được nước thải là vấn đề bức thiết đối với người nuôi tôm, cũng là mục tiêu mà dự án này đặt ra để giải quyết. Ðó là hình thành công nghệ xử lý nước thải bằng tác nhân sinh học dùng cá rô phi và rong biển làm để giải quyết thức ăn thừa trong ao nuôi tôm mà không dùng bất cứ hóa chất nào và không phải xả nước thải ra bên ngoài nhằm hạn chế đến tác động môi trường.
Dự án được Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật tỉnh Phú Yên triển khai thực hiện trong ba năm (2005-2007). Vào vụ nuôi tôm 2006, dự án đã triển khai xây dựng các mô hình trình diễn tại hai vùng nuôi tôm trọng điểm của tỉnh là hạ lưu sông Bàn Thạch (Ðông Hòa) và đầm Cù Mông (Sông Cầu) với sự tham gia của tám hộ dân, là những người có nhiều kinh nghiệm trong nghề nuôi tôm.
Các hộ tham gia dự án được dự án hỗ trợ thực hiện hai loại mô hình mẫu trên diện tích 5,5 ha. Ðối với loại mô hình 1, hồ nuôi tôm được ngăn lại một phần thả nuôi cá rô phi và rong biển, nước thải từ hồ nuôi tôm sẽ được chuyển sang ao nuôi cá rô phi và rong biển để xử lý. Ðối với loại mô hình 2, đăng lưới thả cá rô phi chung trong hồ nuôi tôm, giai lưới đăng đó có thể di chuyển trong hồ tôm để xử lý chất thải.
Trong quá trình thực nghiệm đó, hồ của ông Lâm Văn Chánh ở Xuân Hải (Sông Cầu) bị ảnh hưởng triều cường của cơn bão số 1 là vỡ hồ gây thiệt hại hoàn toàn và hồ của ông Nguyễn Văn Minh ở Hòa Xuân Ðông (Ðông Hòa) thả nuôi vào thời điểm tháng 5-2006, nằm trong vùng tôm đang bị dịch bệnh lây nhiễm không khống chế được nên sau hai tháng nuôi phải xả hồ chịu thất thu. Sáu hồ còn lại, thu hoạch cho năng suất từ 1,5 đến 3,6 tấn/ha. Những hồ dù có năng suất không cao nhưng nhờ chi phí đầu tư thấp nên đều có thu nhập khá.
Theo kỹ sư Hồ Văn Phước, Trưởng ban điều hành dự án, việc triển khai dự án trong thời gian qua được thực hiện ở hai địa bàn cách nhau khá xa nên việc theo dõi so sánh, đánh giá có những khó khăn nhất định. Tuy kết quả các hồ nuôi theo hai mô hình đều có hiệu quả, nhất là mô hình 1. Những hồ thả nuôi đợt đầu vào giữa tháng 3-2006 có tỷ suất lợi nhuận cao hơn, chiếm từ 41 đến 71% so với vốn đầu tư, như trường hợp của ông Trương Công Khoa (Ðông Hòa) nuôi trên diện tích 0,9 ha thu 1,78 tấn tôm, 0,5 tấn cá và 0,8 tấn rong biển, lãi hơn 40 triệu đồng. Hơn nữa, nuôi theo phương pháp này sẽ cho sản phẩm tôm "sạch bệnh", đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu của những thị trường "khó tính".
Dự án bước đầu cũng đã xác định được mật độ thả nuôi các tác nhân sinh học thích hợp để ứng dụng vào nuôi tôm thâm canh như đối với mô hình 1 là 3 cá rô phi và 300g rong biển/m2, và ba con cá rô phi/m2 đối với mô hình 2. Tại hội nghị sơ kết giữa kỳ của dự án, ông Nguyễn Văn Sáu ở Xuân Lộc (Sông Cầu), người tham gia dự án, cho biết: Mô hình 2 dễ làm, hồ tôm có mầu nước "đẹp" và ổn định nên trong vùng có 30 người học làm theo và đều có kết quả khả quan.
Bà Kim Anh, điều phối viên của GEF SGP cũng đánh giá cao triển vọng của dự án cả về hiệu quả kinh tế lẫn môi trường. Bà cho rằng, trong điều kiện môi trường nuôi tôm luôn biến động, những hồ tôm lân cận xảy ra dịch bệnh làm tôm chết hàng loạt thì các mô hình thực nghiệm vẫn ổn định mặc dù các hồ nuôi tôm của dự án phải sử dụng chung nguồn nước, thì đó là một thành công đáng khích lệ, cần được đúc kết để nhân rộng.
Tuy có những kết quả bước đầu đáng phấn khởi song ở dự án vẫn còn những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu để có câu trả lời có luận cứ khoa học. Ðó là vì sao năng suất giữa các hồ nuôi chưa đồng nhất, phương thức thuần hóa cá rô phi từ nuôi nước ngọt sang nước mặn và thả vào thời điểm nào là thích hợp để cá có thể ăn hết chất thải, hoặc đăng lưới trong hồ với kích cỡ nào là phù hợp và khi cần thiết có thể di chuyển thuận lợi mà không bị hư hỏng. Mật độ tôm thả nuôi phù hợp với quy trình thâm canh để tăng hiệu quả kinh tế đồng thời ổn định môi trường cũng là vấn đề người nuôi tôm quan tâm.
Ở hồ tôm của ông Nguyễn Văn Lý ở Hòa Hiệp Nam (Ðông Hòa) có chỉ tiêu NH3 không ổn định và cao quá ngưỡng cho phép (có khi trên 4,2mg/lít) nhưng tôm vẫn phát triển và cho năng suất hơn 3 tấn/ha, chưa được lý giải. Một yêu cầu đặt ra nữa là làm sao việc thả nuôi trong cùng một vùng được thực hiện đồng loạt vào một thời điểm thích hợp để có sự đối chiếu, đánh giá chính xác hơn. Ðiều này cần có sự tham gia của cộng đồng thông qua tập huấn, hội thảo đầu bờ nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho người dân.
Hy vọng trong thời gian còn lại, dự án có những thực nghiệm giải đáp được những vấn đề còn tồn tại, từ đó đúc kết thành quy trình mang tính khoa học để phổ biến rộng rãi cho người nuôi tôm dễ dàng làm theo. Ðiều này thành công chẳng những nâng cao hiệu quả của dự án mà quan trọng hơn sẽ mở ra hướng phát triển bền vững cho các vùng nuôi tôm gần 3.000 ha của Phú Yên nói riêng và nhiều vùng nuôi tôm khác của nước ta nói chung.