Món nợ Pơthi Shakơrting
Trưa đứng bóng, chị Nai Thu dẫn chúng tôi lên thăm nghĩa địa của buôn La Bouye mà tiếng Kơ Ho gọi là kut. Kut nằm trên một ngọn đồi thấp, không gian trú ngụ của các linh hồn cách không xa lắm với làng buôn của những người còn sống. Ở nơi ấy có hàng trăm ngôi mộ và tất cả đều đã được xây cất khang trang - điều làm chúng tôi thực sự bất ngờ khi ở đây là một vùng đồng bào dân tộc thiểu số mà cuộc sống vẫn còn nhiều gian khó. Chị Nai Thu là một phụ nữ thông minh, chân thực và cởi mở. Chính sự cởi mở của chị đã cho chúng tôi biết được thêm nhiều điều…
Người phụ nữ Kơ Ho ấy kể rằng, cho đến nay chị đã đứng ra cáng đáng việc xây mộ và trả nợ xương cốt cho gần mười người đã mất trong dòng họ. Gần đây nhất, chị vừa mới làm Pơthi Shakơrtinh cho ông cậu, người anh ruột của mẹ. Ông cậu Touwetter K`Nher mất từ năm 1994, ông cũng có một người con trai và một người con gái, nhưng theo tập tục: con trai không có trách nhiệm xây mộ cho bố, còn người con gái của ông tên là Ma Xuyên thì khó khăn quá không thể lo được. Nai Thu là cháu gái, người có vai trò chính trong một dân tộc theo chế độ mẫu hệ, và vì vậy, chị đứng ra cáng đáng việc hậu sự cho cậu – mà theo quan niệm của người Kơ Ho, ông cậu là người có vai trò quyết định trong một gia đình. Nai Thu nói: “Là con cháu, mình phải làm tròn bổn phận và trách nhiệm”. Lễ Pơthi Shakơrtinh của ông Touwetter K`Nher mời hơn 300 thực khách đến dự tiệc rượu, xây mộ hết một triệu đồng nhưng chi phí đãi tiệc tốn kém hơn 10 triệu đồng…
Thế nhưng, khách quan mà nói, trong cộng đồng người dân tộc thiểu số, không phải ai cũng có chút ít của nả như nhà chị Nai Thu mà luật tục quy định về Pơthi Shakơrtinh thì không có một biệt lệ nào cả. Chị Ka Chuông, chi hội trưởng chi hội phụ nữ buôn M`Răng, xã Lạc Lâm đưa mắt ái ngại nhìn chồng rồi dè dặt tâm sự với chúng tôi: “Người vợ mất chồng đã khổ tứ bề. Thế nhưng, điều họ lo hơn sau khi chồng mất chính là món nợ Pơthi Shakơrtinh. Không có cũng phải đi vay, đi mượn mà làm. Nếu chưa làm xong nghĩa vụ này thì bị nhà chồng liên tục nhắc nhở, thậm chí còn dọa nạt bắt phải làm cho bằng được.” Để minh chứng cho những điều vừa nói, Ka Chuông dẫn chúng tôi đến nhà chị Ka Thiu. Trong căn nhà lá tồi tàn không thể nghèo hơn, Ka Thiu nuốt nước mắt kể: Chồng chị không may bị chết từ năm1996, để lại cho người vợ yếu ớt ấy một nách 8 đứa con thơ dại. Cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nhưng phía bên nội vẫn luôn tìm cách bóng gió nhắc nhở chị phải xây mộ cho chồng và “trả nợ xương cốt” cho gia đình họ. Chưa thể khắc phục được hoàn cảnh khó khăn, mẹ con chị Ka Thiu chỉ biết cắn răng chịu đựng, nhẫn nhục. Cũng tại buôn M`Răng, chị Ka Dều có chồng là K`Bá mất từ năm 1998, đến năm 2003, 10 mẹ con mới chắt bóp và vay mượn đủ tiền để mua trâu xây mộ cho chồng, cho cha. Ông Rôđa Tê, thành viên của Hội đồng nhân sỹ trí thức trong cộng đồng thiểu số tại Đơn Dương, người có uy tín nhất tại thôn M`Răng kể rằng: em gái của ông là chị Ya Nhai sống ở buôn M`Lọn thuộc thị trấn Thạnh Mỹ đã phải mổ một lần 8 con trâu (khoảng 40 triệu đồng) để tổ chức Pơthi Shakơrtinh cho tám thế hệ từ đời cố ngoại để lại. Anh Touneh Ket ở buôn La Buoye cũng cho chúng tôi biết, vợ anh vừa làm Pơthi Shakơrtinh hồi tháng ba năm nay cho ông cố ngoại đã mất hơn hai trăm năm …
Sức nặng của luật tục
Pơthi Shakơrtinh, như đã nói ở trên, có nghĩa là “xây mộ” và “trả nợ xương cốt”. Theo quy định của luật tục từ bao đời nay, một phụ nữ nếu có chồng không may bị chết trước thì họ phải đứng ra sắm sửa lễ vật mang đến nhà trai xin được xây mộ cho chồng. Mộ được xây xong, họ phải lo làm thịt một con trâu và làm tiệc để mời họ hàng nhà trai ăn uống. Khi tàn cỗ, người vợ không may mắn ấy còn phải chuẩn bị một đùi trâu, một chóe rượu và tiền để gửi về tạ gia đình bên chồng. Tùy vào vai vế của người chồng trong dòng tộc mà người vợ phải mổ một con trâu lớn hay vừa cho tương xứng. Người chồng có vị thế cao thì mổ trâu “bốn gang”, tức là con trâu có sừng dài bốn gang tay, và ngược lại. Nếu do hòan cảnh kinh tế khó khăn mà đời mình không hoàn thành nghĩa vụ này thì con gái của người vợ góa bụa ấy phải tiếp tục thay mẹ “pơthi” cho cha và “shakơrtinh” cho họ hàng bên nội. Và đến lượt mình, người con gái mồ côi chưa có khả năng hòan thành nghĩa vụ nặng nề thì phải tiếp tục truyền lại gánh nặng cho con, cháu, chắt gái của mình…Đối với những cô gái trẻ có chồng không may bị qua đời sớm thì họ cũng phải trả xong món nợ xương cốt rồi hãy nghĩ đến chuyện bước thêm bước nữa. Quy định này không có chiều ngược lại, vì luật tục cũng đã quy định, nếu người vợ không may qua đời trước thì người đàn ông sẽ phải vác xà gạt về nhà bố mẹ đẻ mà không được phép ở lại chính ngôi nhà của mình để làm nghĩa vụ người cha nếu anh ta có ý định thêm một lần “sang ngang”…
Người có uy tín nhất trong buôn cũng không có quyền can thiệp vào những điều khoản như trói buộc này của luật tục. Gìa làng Drong Blum củabuôn La Bouye nói gằn từng tiếng khi chúng tôi hỏi quan điểm của ông về Pơthi Shakơnting: “Việc xây mộ và ăn xương là trách nhiệm phải làm. Thế hệ này không làm được thì thế hệ sau làm. Bà làm chưa được thì chuyển sang mẹ, mẹ làm chưa được thì chuyển sang con, con làm chưa xong thì cháu chắt phải làm…”. Theo quan niệm của người Kơ Ho, trong cuộc đời một người đàn ông có ba mốc chính: bắt vợ, chết và xây mộ. Họ cũng cho rằng, cái chết của một con người là điểm mốc vô cùng quan trọng trong một đời người. Người Kơ Ho nói rằng “chơt la yơh” (chết là hết) nhưng họ cũng tâm niệm “cau chơt la yơh” (nghĩa tử là nghĩa tận). Cho nên, trong cộng đồng, dòng tộc có người qua đời, dù xa xôi và bận rộn thế nào thì họ cũng phải có mặt để phúng viếng, vĩnh biệt và chia xa. Nhưng chết chưa thật sự là mất, hồn của người chết vẫn vương vấn với họ tộc, vợ con, với những người còn sống, chỉ đến khi đã làm Pơthi Shakơrtinh thì người xấu số mới thực sự ra đi vĩnh viễn. Pơthi là ngày chính thức tiễn đưa linh hồn người quá cố về thế giới bên kia, là sự kết thúc tất cả những ràng buộc giữa người còn sống với người đã khuất. Pơthi Shakơrtinh còn là cuộc từ giã giữa dòng họ nhà chồng và dòng họ nhà vợ, từ đây hai nhà chẳng còn gì nợ nần lẫn nhau. Người Kơ Ho cho rằng, đám cưới có thể qua loa và cho nợ nhưng “ăn xương” thì phải thật chu toàn đúng như sự quy định của luật tục. Người Kơ Ho không sợ cái chết đến với chính mình nhưng họ rất sợ người chết “quay trở về” và trừng phạt những người sống. Cho nên, người sống phải làm tất cả mọi điều để cho linh hồn người chết được bình yên ở thế giới bên kia và không còn có lý do trách cứ, quấy nhiễu khi người sống đã đối xử tốt với họ.
Tiếp tục đối đầu?
Dân tộc Kơ Ho theo dòng mẫu hệ, và người phụ nữ vẫn là người có quyền thừa kế và có vai trò quyết định nhiều việc hệ trọng trong mỗi gia đình. Nhưng trong hệ thống luật tục ông bà để lại, thì họ vẫn là người phải chấp hành những quy định nặng nề hơn so với người đàn ông, mà Pơthi Shakơrtinh là một ví dụ. Mặt khác, tâm lý “phú quý sinh lễ nghĩa” và “con gà tức nhau tiếng gáy” cũng đã len vào đời sống của đồng bào.
Chị Nai Thu – cán bộ Hội phụ nữ xã Lạc Xuân, Đơn Dương đưa cho chúng tôi xem tấm thiệp mời dự lễ Pơthi Shakơrtinh của nhà Touneh Thương ở buôn La Buoye và nói thêm: “Đây là sự ganh đua giữa các dòng tộc. Đời sống kinh tế có phần khá lên nên gia đình nào, dòng họ nào cũng muốn thể hiện sự sung túc của mình. Đó cũng là một trong những lý do để các hủ tục thức dậy. Chỉ khổ cho những người phụ nữ nghèo.” Đúng như vậy, đa số chị em phụ nữ dân tộc thiểu số Tây Nguyên nói chung và Kơ Ho, Churu nói riêng là những người ít được học hành. Trong nhận thức hạn chế của mình, họ tiếp nhận mọi quan niệm xa xưa một cách thụ động. Những quy định của luật tục ăn sâu vào tiềm thức, dù biết là gánh nặng nhưng họ coi như những sức mạnh thần bí vượt quá khả năng vùng thoát của mình.
Chỉ tính riêng địa bàn huyện Đơn Dương đã có 27 thôn, buôn tập trung cư dân là đồng bào dân tộc thiểu số với hơn 5.630 phụ nữ dân tộc Kơ Ho và Churu có tuổi đời từ 18 trở lên. Chưa thể làm một phép thống kê để biết có bao nhiêu người đang phải đối mặt với Pơthi Shakơrtinh, tục thách cưới quá cao hay những hủ tục khác. Họ phải sống bằng nhận thức thụ động trong bi kịch của những sự ràng buộc lỗi thời và lạc hậu. Đôi vai yếu ớt của phận liễu yếu đào tơ trong cảnh gian khó phải gánh chịu tất cả những quy định ngặt nghèo mà tổ tiên xa xưa truyền lại do nhận thức không đúng về vũ trụ, về nhân sinh.
Một nghịch lý đáng buồn là 15/27 thôn, buôn nêu trên đã đăng ký xây dựng thôn, buôn văn hóa. Trong khi đó, về phía chính quyền và các đòan thể ở địa phương vẫn chưa thực sự nỗ lực trong công tác tuyên truyền, vận động bà con xây dựng một đời sống văn hóa lành mạnh. Đồng thời, một thực tế đáng lo ngại là vấn đề chuyên môn, nghiệp vụ của những người làm công tác đòan thể, dân vận, văn hóa trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Ngay cả những cán bộ là người dân tộc thiểu số cũng thể hiện sự thiếu hiểu biết về tập quán của đồng bào mình và không phân biệt đâu là phong tục, đâu là hủ tục. Đó chỉ là một vài khó khăn trong vô số khó khăn.
Để cuộc sống đồng bào Kơ Ho, Churu cũng như các dân tộc thiểu số Tây Nguyên vươn lên phát triển, ấm no và xây dựng một môi trường văn hóa lành mạnh mang đậm dấu ấn truyền thống, một vấn đề cần thiết là loại bỏ dần các hủ tục nặng nề tốn kém đang đè nặng lên cuộc sống của hàng ngàn phụ nữ ở Tây Nguyên.
UÔNG THÁI BIỂU
Phóng viên báo Nhân Dân
thường trú tại Lâm Đồng