Theo số liệu của Hải quan TP Hồ Chí Minh, năm 2003 Việt Nam xuất khẩu được 852.000 USD tinh dầu-hương liệu (TD-HL) và 2.875.000 USD mỹ phẩm (MP) chế biến tổng hợp từ TD-HL các loại nhưng đã nhập khẩu trở lại với giá trị tương ứng là 1.750.000 và 152.386.000 USD!
Nhu cầu về TD và HL-MP trên thế giới tăng nhanh do con người ngày càng có xu hướng quay trở về dùng nhiều những hợp chất tự nhiên trong HL-MP, thực phẩm. Trung Quốc và Ấn Độ là hai quốc gia có sản lượng và xuất khẩu TD-HL lớn nhất thế giới nhưng hiện nay cũng phải nhập thêm tinh dầu vì đã xây dựng những nhà máy sản xuất đơn hương và mỹ phẩm lớn để đáp ứng yêu cầu sử dụng trong nước và xuất khẩu!
Nguồn tài nguyên mạnh và dồi dào
Hương liệu sử dụng cho mỹ phẩm và thực phẩm hàm chứa trong tinh dầu các loại. Phổ biến và quen thuộc với thị hiếu tiêu dùng trong nước lâu nay có thể kể như: Bạc hà, hương nhu, bạch đàn, húng quế, hoắc hương, quế, hồi, sả các loại... Loại hiếm hoi nhưng cũng âm thầm có mặt trong sản xuất chế biến là xá xí, hương lau, tràm trà, trầm hương (tên cây cũng là tên hương vị). Tinh dầu là nguyên liệu cơ bản để bán tổng hợp ra nhiều hợp chất tự nhiên quan trọng cho công nghiệp HL-MP. Các hãng dược phẩm trên thế giới ngày càng có nhu cầu nhiều loại tinh dầu chứa các chất chưa được tổng hợp nhân tạo như citronellal, geraniol, cilral...
Các nghiên cứu cho thấy các nguyên liệu này đều đang có trong các loại cây cỏ thực vật phong phú của Việt Nam. Nghiên cứu sơ khởi từ các ngành hóa học và dược liệu cho thấy cả nước có đến 300 loài cây tinh dầu đã được thu thập, trong đó có đến 50 loài cây đã được trồng mang tính sản xuất hàng hóa. Các ngành công llghiệp thực phẩm, hương liệu, mỹ phẩm, y tế mấy chục năm nay đã nghiên cứu đầu tư phát triển các cây tinh dầu hương liệu và từng bước hình thành mạng lưới tiêu thụ và xuất nhập khẩu, tạo các mặt hàng có giá trị cao.
Lực lượng TNXP TP Hồ Chí Minh trong hai thập kỷ 80 và 90 đã phát triển trồng cây tràm, bạch đàn chanh ở Đồng Tháp Mười, trồng sả Java khắp các nông trường miền Đông và Tây Nguyên để chế biến tinh dầu xuất khẩu để tăng thu nhập, nhưng cuối cùng các cơ sở này đều phải giải thể vì không thể tự đứng được trong thương trường thế giới! Một số doanh nghiệp bước đầu đã đầu tư trang thiết bị và nâng cao kỹ thuật chưng cất, chiết xuất với mong muốn chiếm lĩnh thị phần trong nước và xuất khẩu nhưng cuối cùng đều tan hàng, mạnh ai nấy làm vì thiếu sự liên kết. Những cơ sở sản xuất TD-HL thành công đã tự cứu lấy mình bằng cách chuyển qua sản xuất các mặt hàng phổ thông có chứa TD-HL như kem đánh răng, xà phòng... những loại TD-HL đích thực không bị pha trộn chỉ có thể tìm thấy tại các cơ sở chế biến dược liệu cổ truyền!
Về lưu thông, phân phối TD- HL-MP thì hiện nay chủ yếu do các doanh nghiệp tổ chức phân phối điều tiết về giá cả, chủng loại trên địa bàn rộng khắp cả nước theo một mạng lưới riêng, mạnh ai nấy biết. Một số nhà kinh doanh không có chuyên môn đã làm thị trường mất ổn định và chịu nhiều thua thiệt. Một tấn tinh dầu quế sản xuất ở Quảng Nam, Quảng Ngãi nếu xuất khẩu đúng chỗ có thể đem về cả nghìn USD nhưng thông thường chuyền tay nhau bán chỉ với giá vài triệu đồng cũng không có ai mua vì không có nhu cầu! Rộ lên gần đây là sản phẩm tinh dầu trầm hương. Nhiều tin truyền miệng là một kg dầu trầm bán tới 5.000 USD. Nhiều làng sản xuất thủ công ở Quảng Nam đã nhảy vào chưng cất, mang thử sản phẩm vào TP Hồ Chí Minh nhưng chỉ được trả với giá rẻ mạt!
Chỉ có liên kết mới thành công!
Ngành TD-HL-MP Việt Nam rõ ràng đang mở cửa nhưng trong thực tế lại thiếu một nhạc trưởng đủ năng lực điều phối!
TS Nguyễn Văn Minh, thường trực Văn phòng Hiệp hội TD-HL- MP phía Nam cho rằng đây là một ngành tổng hợp từ trồng trọt đến nghiên cứu, chế biến XNK, nên cần thiết phải có các chương trình dài hạn, trước hết là việc xác định thị trường và chiến lược chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm bằng công tác XNK. Như vậy cần lập ra một quỹ hỗ trợ phát triển ngành hàng và chính sách hỗ trợ XK. Ai cũng thấy đây là một ngành hàng có giá trị, có thể đầu tư khép kín nhưng trong thực tế khó có đơn vị nào mạnh dạn vào cuộc do nhiều nguyên nhân.
Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên thuộc Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia là một DNNN ở Hà Nội chuyên kinh doanh XNK tinh dầu. Công ty đã kinh doanh chế biến 15 loại tinh dầu mà Việt Nam có và được khách hàng nước ngoài tín nhiệm. Công ty đã có hệ thống chưng cất tinh dầu hiện đại với công nghệ cung cấp nhiệt bằng nồi hơi của Pháp. Một phần thiết bị, nguyên vật liệu xây lắp có thể sản xuất tại các địa phương. Năm trước, Công ty đã liên hệ với tổ chức giống cây trồng quốc tế CSIRO và trung tâm giống cây rừng Queensland đã cung cấp mẫu hạt giống về trồng thử thành công. Cây bạch đàn chanh hàm lượng citronellal trong tinh dầu từ 75% trở lên, cây tràm Australia cho hàm lượng terpinen-0-01 từ 35% trở lên, các loài sả chanh, sả Java, sả hoa hồng cũng cho các hàm lượng trong tinh dầu cao. Đây là những loại nguyên liệu cơ bản, là tinh dầu y tế, làm ra nhiều hợp chất tự nhiên mà thế giới đang có nhu cầu. Cây tràm Australia và bạch đàn chanh có thể tận dụng đất chống rửa trôi, phủ xanh đất trống đồi trọc, trồng một lần thu hoạch cắt lá liên tục 15 - 20 năm. Cây sả trồng sau sáu tháng thu hoạch lứa đầu tiên, thu hoạch liên tục 6-7 năm. Tinh dầu chưng cất là một chất lỏng chiếm 1,5-2% với lá tươi đối với tràm và bạch đàn, 0,3-0,8% đối với sả. Năm 2003 Công ty lập dự án và kêu gọi đầu tư. Hội viên CLB trang trại TP Hồ Chí Minh hưởng ứng nhưng cuối cùng dự án không thể thực hiện được vì cả trang trại đều ở tản mát, nguyên liệu lá không thể gom về cùng lúc một chỗ để chưng cất!
Tháng 10-2004 Công ty TNHH dược Đông Phương hoạt động trong lĩnh vực XNK thuốc ở TP Hồ Chí Minh đã mang một dự án cần 2.000 ha sản xuất cây dược liệu tinh dầu lên tinh mới Đác Nông đất rộng người thưa. Các ban ngành ở tỉnh rất hoan nghênh nhưng đành phải gợi ý doanh nghiệp tự tìm các đơn vị đang có nguồn đất rộng để được giao lại đất đầu tư vì mọi nguồn đất đều đã có quyền sử dụng đất!
Nhiều ý kiến cho rằng ngành nông lâm nghiệp nên phối hợp với ngành công nghiệp xây dựng được những nông lâm trường chuyên môn mới có thể tạo ra nguồn TD-HL-MP có giá trị. Ngành hàng này đang cần được quy hoạch-đầu tư để cả nước hàng năm mới có thể khỏi tốn hàng trăm triệu USD nhập khẩu.