Thương tiếc anh Năm vô hạn !

NDO - Cách đây không lâu, một lần nữa chúng tôi lại tìm về những đồng đất rất đỗi thân thương ẩn mình dưới chân núi Trà Linh, Trà My, nơi một thời đặt đại bản doanh Quân khu V trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1960 đến 1975, anh Năm Công - Võ Chí Công là Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Bí thư, Chính ủy Khu V.

Công việc của chúng tôi là quyên góp từ trách nhiệm và lòng hảo tâm của những người lính Khu V năm xưa trong cả nước, từ các đơn vị, cơ quan... để xây dựng ngôi trường cho con em đồng bào dân tộc thiểu số.

Ðêm. Trà My rực rỡ và huyền diệu. Hoa rừng đâu đây tỏa hương thơm ngào ngạt. Chúng tôi ở nhà khách Huyện ủy, trên một triền đồi phóng tầm mắt ra xa, thung lũng Trà My về đêm như sao rơi khắp lối để những buổi hoàng hôn lại hiện trắng những cánh cò. Những đêm ở đó chúng tôi không ngủ được. Dãy núi Trà Linh hùng vĩ cứ chập chờn, mờ tỏ, như mới ngày hôm qua.

Những năm chống Mỹ có thời gian chúng tôi, Ðảng bộ Quảng Nam đặt trụ sở ở đây. Anh Năm Công - Võ Chí Công, Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Bí thư, Chính ủy Quân khu V có thời kỳ ở đây lãnh đạo toàn quân, toàn dân Khu V đánh giặc.

Tôi nhớ tại cái thung lũng này hồi đó mênh mông là rừng, có lần anh Năm Công bảo: Trời cho dãy núi này là để ta đóng quân và đánh giặc Mỹ. Tiến cũng thuận mà lùi cũng thuận, lên cao nguyên dễ mà xuống đồng bằng cũng không khó. Xuôi đông, ngược tây đều hay cả, đặc biệt địch không dễ gì càn quét, lấn chiếm lên đây.

Sau này tôi càng hiểu thêm rằng đó là cách nhìn chiến lược về địa lý, địa lợi, mặc dù phải thay đổi nhiều lần nơi đóng quân của cơ quan đầu não Khu ủy quân khu, nhưng ở thung lũng này vẫn là địa bàn trọng yếu và quen thuộc nhất. Có lúc phải ra đi nhưng không lâu sau lại trở về. Mà có đi đâu xa, chỉ cách vài ngọn núi, xa nhất là lên sông Tranh - Phước Sơn mà thôi.

Ðêm đầu tháng ở Trà My, nhìn những rừng cây xa tít tôi như nhớ những năm nào, như những cánh quân rùng rùng tiến về xuôi. Dẫn đầu những đoàn quân đó là anh Năm, anh Hai, cũng khoác ba-lô, tay cầm gậy, cũng ăn rau rừng, cũng hát hò khoan - một làn điệu dân ca đất Quảng. Anh Năm sống giản dị và gần gũi đáng yêu. Một sự giản dị như bao người dân Tam Xuân - Tam Kỳ quê anh. Thế nhưng cái giản dị ấy như một sự khái quát hóa đậm đặc về một phong cách. Ðã làm thì làm gấp nhiều lần hơn nghĩ. Ðã đánh dứt khoát là phải đánh tận cùng, đánh trúng mục tiêu, đánh cho địch lần sau nghe tiếng súng là sợ. Chúng tôi cứ thầm nghĩ quê hương đã sinh ra anh để góp phần tái tạo lại quê hương trong những năm tháng không thể nào quên đó.

Tháng 6-1963 tôi đang giảng dạy ở Trường Quân chính Quân khu V, lúc này đóng ở Gia Lai, bên bờ sông Ba thì nhận điện khẩn của Quân khu V, của anh Năm Công. Nhận điện, tôi khoác ba-lô đi một mạch về Trà My, đến tại vùng đất này đây. Ðến nơi tôi mới hay anh Năm Công quyết định bổ sung tôi vào Thường vụ Tỉnh ủy, kiêm Chính trị viên Tỉnh đội Quảng Nam. Lúc này Văn phòng Tỉnh ủy đóng ở Nà Chói, xã Ðốc, tây nam bờ sông Tranh, cách trung tâm huyện Trà My chừng 30 km, và cách khu ủy cũng chừng ấy cây số theo đường chim bay. Thấy tôi có vẻ băn khoăn trước trọng trách mới, anh Năm ôn tồn bảo: Công việc tuy nặng nề đấy, gian khổ đấy nhưng phải đảm liệu cho bằng được. Lúc này đây chúng ta đang ở giai đoạn cam go nhất, quân và dân ta có thể hy sinh nhiều nhất, nhưng dứt khoát bằng mọi giá chúng ta phải vượt qua. Có gì khó khăn cứ bàn bạc với Tỉnh ủy hoặc trực tiếp với chúng tôi, Thường vụ Khu ủy.

Nghe anh dặn dò và hy vọng tôi thấy yên lòng như vừa vơi đi một gánh nặng sau mấy ngày đường đi bộ. Ðó là lần đầu tôi gặp anh, là kỷ niệm đầu tiên và khó quên mà anh Năm đã để lại trong tôi.

Dưới sự chỉ đạo của anh Năm và anh Hai Mạnh (đồng chí Chu Huy Mân), hai năm sau, tức năm 1964-1965, kể từ khi tôi đặt chân tới vùng đất này nhận công tác mới, quân và dân Quảng Nam đã thừa thắng xông lên, đánh địch tan rã từng phần, mở rộng vùng giải phóng, kể cả vùng núi và đồng bằng.

Một kỷ niệm khó quên nữa với anh Năm là tháng 12-1974 theo chỉ thị của Tổng Bí thư Lê Duẩn, anh Năm Công (lúc này là Ủy viên Trung ương Ðảng, Bí thư Khu ủy Khu V) ra Hà Nội họp Bộ Chính trị mở rộng lần thứ 2 trong năm nhằm chuẩn bị tổng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam. Anh cho bốn Bí thư Tỉnh ủy đồng bằng đi cùng. Ở Quảng Ðà có anh Trần Thuận, Quảng Ngãi có anh Lê Tấn Tỏa, Bình Ðịnh có anh Nguyễn Trung Tín, Quảng Nam có tôi. Ngày 18-12-1974 khai mạc phiên họp. Chúng tôi ở cùng dãy nhà với anh, nay là nhà khách số 10 Chu Văn An.

Ban ngày anh đi họp, tối về phổ biến lại cho chúng tôi cùng nghe, cùng suy nghĩ quán triệt tinh thần của Bộ Chính trị, có dự kiến phương án cụ thể về nổi dậy và tiến công giải phóng tỉnh mình.

Tại cuộc họp vấn đề tốn nhiều thời gian nhất, bàn luận sôi nổi nhất là nếu chúng ta đánh bại quân ngụy ở Sài Gòn thì Mỹ có quay trở lại chiến trường miền nam hay không? Và nữa, nếu tổng tiến công thì chọn địa bàn nào, chiến trường nào để mở màn chiến dịch? Nhiều người nhất trí là chọn Tây Nguyên nhưng đánh vào nam Tây Nguyên hay bắc Tây Nguyên? Có ý kiến đề nghị nên đánh vào bắc Tây Nguyên, vì có nhiều điều kiện thuận lợi hơn. Anh Năm Công và Hai Mạnh kiên trì đề nghị Bộ Chính trị đột phá vào nam Tây Nguyên, mục tiêu cụ thể là Buôn Ma Thuột. Như chúng ta đều biết, cuối cùng Bộ Chính trị đã chọn nam Tây Nguyên - thị xã Buôn Ma Thuột để mở màn chiến dịch, tổng tiến công mùa xuân 1975.

Gắn bó với chiến trường Khu V nhiều năm, nhưng những ngày ở Hà Nội vào tháng 12 năm ấy chúng tôi mới được gần gũi nhất và hiểu hết tầm nhìn sâu sắc và toàn diện của anh Năm Công. Những đêm quây quần bên anh Năm nghe anh quán triệt quan điểm của Bộ Chính trị, nghe anh tâm tình, chúng tôi như đọc được những pho sách vô giá về nghệ thuật và ý chí đánh địch.

Thì ra, anh quyết định cho bốn chúng tôi ra Hà Nội là vậy. Ra đây, ra Thủ đô trong thời điểm cuộc chiến đang ở giai đoạn cần kíp nhất không phải để nghỉ dưỡng, thăm phố phường, mà để anh Năm có điều kiện và thời gian truyền đạt thêm quan điểm chỉ đạo.

Sau khi họp Bộ Chính trị xong, ngày mai là lên đường về Khu V, anh Năm Công gọi tôi và anh Lê Tấn Tỏa giao nhiệm vụ ngay, đó là phối hợp giữ cho được tuyến quốc lộ 1A nối liền hai tỉnh để chuẩn bị điều kiện giải phóng Ðà Nẵng. Anh còn dặn dò nhiều việc khác nữa tựa hồ như mọi việc sẽ là vậy chứ không thể khác. Như người chơi cờ đã tính kỹ nhiều nước trước khi đi, thuận xe, thuận pháo bình phong mã. Lúc đó, khoảng 12 giờ đêm, lần đầu tiên tôi thấy anh đi ngủ sớm.

Ðêm cuối cùng ở Hà Nội, trời trong xanh lồng lộng, anh Tấn Tỏa, anh Trần Thuận, anh Trung Tín cũng phải đi ngủ sớm để ngày mai lên đường. Làm sao chúng tôi có thể ngủ được trong những ngày tháng như thế. Tôi biết phòng kế bên, anh Năm cũng không chợp mắt.

Ðúng như anh dự tính, ván cờ sắp tàn cuộc, 4 giờ 30 phút ngày 10-3-1975 trùng với ngày nổ súng ở Buôn Ma Thuột từ chân đồi Dương Côn - nơi sở chỉ huy Sư đoàn 2 Quân khu V, hai phát lệnh, một xanh, một đỏ vút lên trời cao báo hiệu thời khắc đã điểm. Trận mở màn chiến dịch giải phóng Tiên Phước, Phước Lâm bắt đầu. Ở Quảng Nam đến sáng 27-3-1975 các địa phương được hoàn toàn giải phóng. Theo lời anh dặn, lực lượng Quảng Nam chúng tôi và lực lượng của anh Lê Tấn Tỏa - Quảng Ngãi phối hợp nhau chốt chặt tuyến đường huyết mạch 1A. Trước thời cơ, diễn biến chiến trường mau lẹ có lợi hoàn toàn cho ta, trên đường đi Tây Nguyên để gặp anh Văn Tiến Dũng anh Năm quay trở về, sau khi đã xin ý kiến anh Ba Duẩn, Bộ Chính trị cho phép khẩn trương giải phóng Ðà Nẵng, đồng thời điện về cơ quan chỉ đạo Khu ủy, Quân khu, Bộ Tư lệnh Quân khu V không đánh vào phía nam mà chuyển hướng tiến công ra phía bắc. Ðây là quyết định kịp thời đúng đắn trong thời khắc cần một quyết định táo bạo, sáng suốt nhất. Vì thế trong thời gian ngắn quân ta không mất nhiều sức lực nhưng đã làm tan rã 10 vạn quân ngụy ở Ðà Nẵng. Ngày 29-3-1975 Ðà Nẵng giải phóng, trong rừng hoa và cờ đỏ.

Anh Năm ơi!

Anh đã dạy chúng tôi nhiều kinh nghiệm quá và thương yêu những người lính cấp dưới như chúng tôi nhiều quá. Chiến trường Khu V cùng cuộc tổng tiến công mùa xuân năm ấy là những trang sách thấm đẫm mồ hôi và suy tính của anh. Ðó là những trang sách quý báu mà anh yêu cầu chúng tôi làm trước rồi mới dạy chúng tôi sau. Tiếc rằng trước lúc anh ra đi, hóa thân vào quê hương và đất nước, chúng tôi, những người lính năm xưa không ở cạnh anh để nói lời tiễn biệt. Như rất nhiều lần mỗi khi họp xong ở rừng hay gặp nhau, khi chia tay anh vẫn thường thân thương bắt tay rất chặt để tạm biệt từng người. Xin anh hãy nhận cho chúng tôi tấm lòng thành kính tiễn đưa anh và chia buồn sâu sắc cùng gia quyến. Thương tiếc anh vô hạn. Vĩnh biệt anh Năm!

Hà Nội, ngày 9-9-2011

HOÀNG MINH THẮNG