Thiếu tướng, nhà văn Hồ Phương - người ghi đậm dấu ấn trong văn học chiến tranh

Thiếu tướng - nhà văn Hồ Phương đã vĩnh biệt chúng ta vào hồi 20 giờ 56 phút ngày 2/1/2024, hưởng thọ 94 tuổi. Những tác phẩm của ông đã ghi dấu ấn đậm nét trong văn học chiến tranh cách mạng và trong lòng bạn đọc qua các thế hệ.
Nhà văn Hồ Phương. (Ảnh NGUYỄN ĐÌNH TOÁN)
Nhà văn Hồ Phương. (Ảnh NGUYỄN ĐÌNH TOÁN)

Hồ Phương tên khai sinh là Nguyễn Thế Xương, sinh năm 1930, tại làng Mậu Lương, Thanh Trì, Hà Đông (cũ). Ngay từ nhỏ, ông đã bộc lộ thiên tư là một cậu bé thông minh, giỏi giang. Thời còn là học sinh ở Trường Bưởi (nay là Trường THPT Chu Văn An-Hà Nội), Hồ Phương đã ôm ấp ước mơ trở thành một nhà văn hoặc thầy giáo dạy văn học. Tuy nhiên, thời cuộc lịch sử đã đưa ông đến với quân ngũ.

Năm 1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Hồ Phương khi ấy mới 16 tuổi, gia nhập lực lượng tự vệ Thành Hoàng Diệu rồi gia nhập quân đội, trở thành “Chiến sĩ Quyết tử” của Thủ đô sáu mươi ngày đêm khói lửa. Tháng 6 năm 1947 Hồ Phương được cử theo học trường quân chính tại Trung đoàn 17 thuộc Đại đoàn 308 (sau này là Sư đoàn Quân Tiên phong Anh hùng).

Từ năm 1948 đến năm 1954, Hồ Phương được giao phụ trách tờ báo của Trung đoàn 17, làm phó tiểu ban văn nghệ, làm biên tập viên và phụ trách tờ báo của sư đoàn, sau đó làm Chính trị viên Đại đội Phòng không, rồi làm Chủ nhiệm Câu lạc bộ Đại đoàn 308.

Tháng 8 năm 1955, nhà văn Hồ Phương được điều về công tác tại Tổng cục Chính trị, làm biên tập viên báo Văn nghệ quân đội. Năm 1957 báo Văn nghệ quân đội chuyển thành tạp chí và Hồ Phương trở thành một trong những người thuộc thế hệ đầu tiên đặt nền móng cho sự ra đời của tạp chí Văn nghệ quân đội.

Năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước vào giai đoạn ác liệt, Hồ Phương được cử đi B, tham gia nhiều trận đánh ở các mặt trận, sau đó ông trở lại tạp chí Văn nghệ quân đội. Tháng 12 năm 1981, nhà văn Hồ Phương được bổ nhiệm làm Phó Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ quân đội. Tháng 8 năm 1990, ông được phong hàm Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.

Năm 1997, sau 50 năm liên tục phục vụ trong quân ngũ, Thiếu tướng, nhà văn Hồ Phương được quân đội cho nghỉ hưu. Ông từng làm Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ của Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, từng tham gia Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III.

Trong tư cách một quân nhân, dấu chân của người lính Hồ Phương đã rong ruổi qua hai cuộc kháng chiến, từ chống thực dân Pháp giành độc lập, đến chống đế quốc Mỹ thống nhất đất nước. Ông có mặt ở nhiều chiến dịch lớn, điển hình như chiến dịch Biên giới năm 1950 và Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Có thể nói, ở bất kỳ giai đoạn nào, hoàn cảnh nào, Hồ Phương cũng thể hiện là một người chiến sĩ hoàn thành tốt nhiệm vụ với tinh thần: Vì nước quên thân, vì dân phục vụ.

Tác phẩm đầu tay của ông là truyện ngắn “Thư nhà” ra đời khi ông mới 18 tuổi, báo hiệu sự hình thành một nhà văn quân đội xuất sắc. Suốt những năm tháng chiến tranh, nhà văn Hồ Phương đã không quản gian khổ, hy sinh, sát cánh cùng người chiến sĩ lăn lộn trên các hướng mặt trận, ở những nơi gian khó, ác liệt nhất, để lấy tư liệu sáng tác.

Rồi từ những trải nghiệm thực tế khốc liệt đó, bằng tài năng của mình, ông đã phản ánh thành công hình ảnh cao đẹp của người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng và hình ảnh con người Việt Nam nói chung, trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Với một phong cách riêng biệt, nhà văn Hồ Phương đã mang tới những đóng góp quan trọng cho nền văn học về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam.

Bằng tài năng, cộng với sức lao động miệt mài, Hồ Phương để lại dấu ấn đậm nét trong đời sống văn học với hơn 40 tác phẩm, trong đó nhiều tác phẩm trở nên quen thuộc với các thế hệ bạn đọc, như: Thư nhà (truyện ngắn, 1948), Vệ Út (truyện, 1955), Vài mẩu chuyện về Điện Biên Phủ (truyện, 1956), Lá cờ chuẩn đỏ thắm (truyện, 1957), Cỏ non (truyện ngắn, 1960), Trên biển lớn (truyện ngắn, 1964), Nhằm thẳng quân thù mà bắn (truyện, 1965), Chúng tôi ở Cồn Cỏ (ký sự, 1966), Kan Lịch (tiểu thuyết, 1967), Những tầm cao (tiểu thuyết, 2 tập, 1975), Phía tây mặt trận (truyện ngắn, ký 1978), Biển gọi (tiểu thuyết, 1980), Cầm Sa (truyện ngắn, 1980), Bình minh (tiểu thuyết, 1981), Mặt trời ấm sáng (tiểu thuyết, 1985), Anh là ai (tiểu thuyết, 1992), Cánh đồng phía Tây (tiểu thuyết, 1994), Chân trời xa (tiểu thuyết, 1985), Yêu tinh (tiểu thuyết 2001), Ngàn dâu (tiểu thuyết 2002), Những cánh rừng lá đỏ (tiểu thuyết 2005), Cha và con (tiểu thuyết 2007).

Có thể khẳng định, cuộc đời quân ngũ cũng như sự nghiệp sáng tác văn học của Thiếu tướng - nhà văn Hồ Phương thật sự là một bản tráng ca tiêu biểu cho thế hệ những người đã trải qua chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Ở ông, cũng như những người lính cầm bút thế hệ ông, chúng ta nhìn thấy sự hòa quyện hoàn hảo giữa nghĩa vụ của một người lính trước Tổ quốc, và lòng trắc ẩn của một nhà văn trước đồng bào mình.

Sinh thời, Thiếu tướng - nhà văn Hồ Phương từng tâm sự: “Trong tay tôi luôn có hai vũ khí, một bên là súng, còn bên kia là tay bút. Với tôi viết là nhiệm vụ, là đam mê và cũng là “cái nợ” của cuộc đời. Tôi viết bao nhiêu mà như vẫn chưa đủ trả nợ cuộc đời. Món nợ vẫn còn với đồng đội, với đồng bào luôn canh cánh trong lòng”. Đó là tuyên ngôn của một nhà văn - chiến sĩ, của người đã đi trọn vẹn đời mình với những biến cố oanh liệt nhất của dân tộc trong sự hình thành một nước Việt Nam mới.

Giá trị sáng tác của nhà văn Hồ Phương được ghi nhận thông qua những giải thưởng văn học cao quý mà ông được trao, như: Giải thưởng truyện ngắn báo Văn nghệ năm 1958; Giải thưởng văn học Thủ đô năm 1983; Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam - Bộ Công an năm 2001; Giải thưởng Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học, nghệ thuật Việt Nam năm 2003; Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001; Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học, nghệ thuật năm 2012.

Để ghi nhận những cống hiến của Thiếu tướng Hồ Phương, Đảng, Nhà nước và Quân đội đã trao tặng ông nhiều huân chương, huy chương cùng các phần thưởng cao quý như: Huân chương Độc lập hạng ba; Huân chương Quân công hạng nhì; Huân chương Chiến công hạng ba; Huân chương Chiến thắng hạng ba; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng nhất; Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng nhất, nhì, ba; Huy chương Quân kỳ quyết thắng; Huy hiệu 75 năm tuổi đảng.

Có thể bạn quan tâm