Thành lập Chương trình chuyên sâu chẩn đoán và điều trị bệnh phổi kẽ

NDO - Tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh phổi mô kẽ khoảng 6-7% tổng số bệnh nhân trong Khoa Hô hấp, Bệnh viện Phổi Trung ương. Tuy nhiên, các trường hợp này hầu hết đều nặng, có những trường hợp tử vong vì chủ quan bỏ điều trị, đến viện muộn. Vì vậy, cần có một chiến lược quản lý bệnh phổi kẽ trên toàn quốc.
0:00 / 0:00
0:00
PGS, TS Nguyễn Viết Nhung, Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương.
PGS, TS Nguyễn Viết Nhung, Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương.

Bệnh phổi kẽ là nhóm bệnh lý khá đa dạng, mặc dù không phải nhóm bệnh mới xuất hiện nhưng thực tế chưa được quan tâm và hiểu biết một cách cặn kẽ ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới.

Khoa Hô hấp, Bệnh viện Phổi Trung ương hàng ngày điều trị cho từ 70-100 bệnh nhân. Tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh phổi mô kẽ khoảng 6-7% tổng số bệnh nhân trong khoa.

Từ năm 2020, bệnh viện đã thành lập Hội đồng đa chuyên khoa cho bệnh phổi Kẽ. Tại khoa Hô hấp, mỗi bệnh nhân sẽ được làm 1 bệnh án đưa ra hội đồng đa chuyên khoa gồm nhiều bệnh viện: Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Bệnh viện 103, Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện đa khoa Thái Nguyên, Bệnh viện Tâm Anh... để đưa ra chẩn đoán và phác đồ điều trị cho bệnh nhân, sau đó mỗi bệnh án đều được đưa vào hệ thống lưu trữ thông tin để theo dõi.

Đến nay, Hội đồng đã hỗ trợ chẩn đoán và điều trị cho một số lượng lớn các bệnh nhân từ nhiều cơ sở y tế thông qua cơ chế phối hợp hiệu quả.

Mặc dù hiện nay tỷ lệ phát hiện bệnh nhân viêm phổi kẽ tăng lên đáng kể nhưng do các biểu hiện của bệnh phổi kẽ trên lâm sàng là không đặc hiệu, việc chẩn đoán căn nguyên và phân loại bệnh phổi kẽ còn là thách thức lớn với các bác sĩ trên lâm sàng.

Việt Nam hiện chưa có nhiều hội đồng đa chuyên khoa trong chẩn đoán điều trị bệnh phổi mô kẽ. Các kỹ thuật chẩn đoán bệnh phổi kẽ như chẩn đoán hình ảnh, nội soi,... chưa được thực hiện thường quy trong mạng lưới chuyên khoa lao và bệnh phổi.

Về mặt dịch tễ, tỷ lệ mắc của từng bệnh phổi kẽ không cao, nhưng tổng hợp chung cả nhóm bệnh phổi kẽ cũng gây ảnh hưởng lên 1 số lớn người bệnh với tần suất mắc 76/100.000 dân tại châu Âu và 74,3/100000 dân ở Hoa Kỳ.

Trong đó có 3 bệnh phổi kẽ phổ biến nhất là Sarcoidosis, bệnh phổi kẽ liên quan đến bệnh mô liên kết và xơ phổi vô căn với tỷ lệ tương ứng là 30,2; 12,1; 8,2 ca trên 100.000 dân.

Theo PGS, TS Nguyễn Viết Nhung, Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương, người bệnh phổi kẽ tại Việt Nam thường được phát hiện muộn khi đã có biến chứng của bệnh như suy hô hấp, tâm phế mạn với các biểu hiện xơ hóa nhu mô phổi không hồi phục trên phim chụp HRCT.

Bên cạnh những bệnh phổi kẽ thường gặp như IPF, CTD-ILD, sarcoidosis, căn nguyên về nhiễm trùng và nghề nghiệp cũng là nhóm gây bệnh phổi kẽ tại Việt Nam.

Điều trị bệnh phổi kẽ đối với người bệnh phổi kẽ giai đoạn cuối ở Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa trên các phương pháp chăm sóc giảm nhẹ, như thở oxy dài hạn tại nhà, phục hồi chức năng hô hấp, dự phòng nhiễm khuẩn.

Với các đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học, giải phẫu bệnh cũng như cơ chế bệnh sinh đa dạng và không đồng nhất, các khuyến cáo trên thế giới đã đề cập đến vai trò của hội đồng đa chuyên khoa trong chẩn đoán và điều trị bệnh phổi kẽ

Để giải quyết tốt nhất với bệnh phổi kẽ, PGS, TS Nguyễn Viết Nhung nhấn mạnh, chúng ta cần có định hướng chiến lược: Áp dụng tối ưu các tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại, hội đồng đa chuyên khoa cho chẩn đoán và điều trị bằng một mạng lưới chuyên khoa từ Trung ương đến tuyến cơ sở để phát hiện sớm và chăm sóc hiệu quả lâu dài, bền vững.

Với chiến lược này người bệnh vừa có thể được chẩn đoán và điều trị đúng mà không làm quá tải ở tuyến Trung ương.

Để phát huy một trung tâm bệnh phổi kẽ, ngày 19/12, Bệnh viện Phổi Trung ương công bố việc thành lập Chương trình bệnh phổi kẽ với mục tiêu xây dựng năng lực Bệnh viện Phổi Trung ương là một trung tâm chuyên sâu cung cấp gói dịch vụ chẩn đoán và điều trị bệnh phổi kẽ tiêu chuẩn, tiên tiến, tiện lợi và dễ tiếp cận cho người bệnh tại Bệnh viện Phổi Trung ương.

Xây dựng và triển khai mạng lưới Bệnh phổi kẽ dựa trên mạng lưới phòng chống lao và bệnh phổi để người dân tiếp cận với dịch vụ chẩn đoán và điều trị bệnh phổi kẽ tiêu chuẩn; Đào tạo, chuyển giao công nghệ cho bệnh viện thuộc mạng lưới; Thúc đẩy hợp tác quốc tế; Đánh giá tình tình dịch tễ bệnh phổi kẽ của Việt Nam.

Chương trình cũng vận động chính sách, truyền thông và huy động xã hội để người dân biết tiếp cận bệnh phổi kẽ và bảo hiểm y tế hỗ trợ cho các kỹ thuật chẩn đoán và thuốc điều trị bệnh phổi kẽ.

PGS, GS Nguyễn Viết Nhung nhấn mạnh, chương trình được thành lập và đi vào hoạt động chắc chắn sẽ mang lại ý nghĩa kinh tế xã hội to lớn với nhiều lợi ích cho người bệnh, người nhà người bệnh, cộng đồng, nhân viên y tế của bệnh viện và mạng lưới các bệnh viện.