Xơ cứng cơ Delta là một bệnh thường gặp giống như các trường hợp xơ cứng cơ tam đầu cánh tay, xơ cứng cơ tứ đầu đùi hay xơ cứng cơ đái chậu...
Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng gặp nhiều nhất là lứa tuổi nhỏ. Bệnh thường dẫn đến hậu quả nặng nề như làm giảm chức năng hô hấp, chức năng vận động, đặc biệt là làm biến dạng vùng vai ngực ảnh hưởng đến thẩm mỹ của trẻ.
1. Một số đặc điểm giải phẫu
Cơ Delta là một cơ rất quan trọng của khớp vai, có tác dụng dạng cánh tay giơ lên trên, xoay xương cánh tay vào trong và ra ngoài.
Cơ Delta hình chữ delta gồm ba bó: bó trước, bó sau và bó giữa. Nguyên ủy bám vào gai vai, mỏm cùng, xương đòn, cơ đi thẳng xuống hay chếch từ trước ra sau, từ sau ra trước để tụm lại thành mảng gân và bám tận ở mặt ngoài xương cánh tay.
Để giúp cho khớp vai hoạt động bình thường ngoài cơ Delta còn có sự tham gia của rất nhiều cơ khác như: cơ ngực lớn, cơ ngực bé, cơ dưới vai, cơ nâng vai, cơ trên gai, cơ dưới gai, cơ tròn to, cơ tròn bé, cơ thang, cơ trám, cơ quạ cánh tay, cơ tam đầu cánh tay...
Khi cơ Delta tổn thương lâu dần xơ cứng không giãn ra được sẽ gây nên các tổn thương thứ cấp đối với những cơ lân cận.
2. Nguyên nhân
Nguyên nhân của xơ cứng cơ Delta có nhiều như: chấn thương gây dập cơ tụ máu, viêm cơ nhưng phần lớn vẫn do tiêm, tiêm nhiều lần, tiêm vào một vị trí. Khi có yếu tố tác động cơ có phản ứng co cứng lâu dần sẽ hình thành xơ, có thể là một dải xơ hoặc xơ rải rác.
3. Sự biến đổi về hình thái trên lâm sàng thường gặp
Các trường hợp xơ cứng cơ Delta được phát hiện hầu hết là muộn (sau nhiều năm). Đã có sự biến đổi nhiều về hình thể lúc đầu cơ Delta bị co rút, xơ cứng không dàn ra dẫn đến khớp vai vận động hạn chế nhất là động tác khép khớp vai theo bình diện nằm ngang. Để thích nghi với khớp vai khớp bả dần trở nên linh động hơn. Cơ trám là cơ giữa bờ trong xương bả và cột sống bị kéo dàn ra làm xương bả trượt ra ngoài và ra trước. Cơ ngực lớn, cơ ngực bé, cơ trên gai, cơ dưới gai co rút làm lồng ngực hẹp lại chỏm xương cánh tay nhô ra trước vào trong. Hình ảnh lâm sàng của trẻ biến đổi rất đa dạng và khác nhau. Dù sự biến đổi thế nào thì trên lâm sàng chúng ta cũng thấy có một số triệu chứng chung:
+ Chỏm xương cánh tay nhô ra trước vào trong, cánh tay bị kéo bong ra ngoài và co ra sau.
+ Xương bả di động trượt cách xa cột sống. Bờ trong xương bả dô cao có xu hướng xoay ngang.
+ Lồng ngực co hẹp, đo dung tích sống sẽ giảm nhiều ở những trường hợp nặng.
+ Cơ delta có thể thấy rãnh lõm ở da dọc theo dải xơ, sờ thấy dải xơ cứng độ kéo giãn hạn chế.
+ Theo chúng tôi để chẩn đoán và lượng giá mức độ xơ cứng của cơ delta chúng ta phải đo góc gai vai - cánh tay khi khép tối đa theo bình diện nằm ngang: Góc này càng nhỏ thì mức độ xơ cứng càng nhiều (bình thường góc này khoảng 900 - 1000).
+ Việc đo góc liên mỏm cùng vai - cánh tay và góc cánh tay - thân để lượng giá sẽ không chính xác vì khi xương bả bị kéo xoay ngang góc này đã tự thay đổi.
4. Cận lâm sàng
- Siêu âm:
Có dải tăng âm ở vùng cơ Delta.
- XQ:
Chụp lồng ngực tư thế thẳng 2 tay thả lỏng thường thấy một số hình ảnh: hai xương bả cách xa nhau có xu hướng xoay ngang, chỏm xương cánh tay lên trên, ra trước lệch khỏi vị trí giải phẫu, khe khớp vai hẹp.
- Điện từ trường, điện cơ không nhất thiết phải làm.
5. Hướng điều trị
Do xơ cứng cơ Delta dẫn đến làm biến đổi hình thái và làm giảm chức năng hô hấp và vận động của trẻ. Việc điều trị cũng phải nhằm 2 mục đích:
- Trả lại hình thể bình thường của trẻ.
- Phục hồi chức năng vận động và hô hấp.
Sự biến đổi hình thể của trẻ rất khác nhau do sự co rút của các nhóm cơ khác nhau ở mỗi trẻ. Chính vì vậy không có một bài tập nào chung cho tất cả trẻ. Tùy theo sự biến đổi của từng trẻ mà sự phục hồi sẽ khác nhau.
Việc làm giãn hay khoẻ các nhóm cơ này đóng vai trò rất quan trọng trong việc trả lại hình thể cho trẻ.
- Phương pháp làm mềm dãn các cơ bị co rút tốt nhất là xoa bóp sâu và kéo dãn thụ động ở tư thế chùng nhất. Ngoài ra chúng ta có thể điều trị thêm bằng nhiệt, siêu âm.
- Tập chủ động các cơ liên bả cột sống làm các cơ này khỏe để kéo xương bả trở lại vị trí bình thường.
- Xoa bóp các cơ liên sườn, cơ ngực, tập thở sâu, tập các động tác làm lồng ngực dãn ra để trả lại chức năng hô hấp.
- Trong xơ cứng cơ Delta sự hạn chế chức năng vận động không nhiều, chủ yếu là động tác khép khớp vai do cơ Delta xơ cứng. Phẫu thuật nhằm mục đích cắt xơ, kéo dài cơ Delta giúp cánh tay khép dễ dàng hơn mà ít làm thay đổi hình thể trẻ.
Chính vì vậy nên cho trẻ phục hồi chức năng (PHCN) trước khi tiến hành phẫu thuật và nên phẫu thuật cho những trẻ có số đo góc vai - cánh tay < 200. Sau phẫu thuật cố định cánh tay ở tư thế khép 5 - 7 ngày và PHCN sớm cho trẻ.
Như trên đã nói mức độ xơ cứng cơ không tương xứng với mức độ hạn chế vận động và biến đổi hình thể của trẻ. Sau mổ được đánh giá là tốt khi vận động chủ động, khép khớp vai mà góc gai vai - cánh tay lớn hơn lúc chưa mổ.
6. Phòng bệnh
Xơ cứng cơ Delta đưa đến hậu quả là sự biến đổi hình thái, làm giảm chức năng vận động, chức năng hô hấp. Sự biến đổi ấy diễn ra trong một quá trình lâu dài. Muốn phòng được bệnh thì việc quan trọng phải phát hiện và điều trị sớm.
Đặc biệt nguyên nhân chủ yếu của xơ cơ là do tiêm nhiều. Vì vậy nên hạn chế tối đa việc dùng thuốc tiêm cho trẻ, nếu thật cần sử dụng thuốc tiêm đặc biệt là thuốc tiêm vào cơ Delta ta phải theo dõi vùng tiêm cẩn thận. Nếu có biểu hiện cơ Delta bị co cứng, khép khớp vai hạn chế (thường sau 7 - 10 ngày không khỏi) cần gửi trẻ đến cơ sở PHCN ngay.
Ngoài ra cũng phải theo dõi ở những trường hợp viêm cơ, dập cơ tụ máu ở vùng cơ Delta. Nếu có triệu chứng tương tự cần phải đến điều trị sớm.