Thẩm tra dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam

Theo Tờ trình của Chính phủ, Luật Sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ sáu thông qua ngày 21-12-1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-4-2000. Qua quá trình thực hiện đến nay đã bộc lộ một số vấn đề không còn phù hợp tình hình mới hoặc còn thiếu, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ sĩ quan quân đội trong thời kỳ mới.

Nội dung sửa đổi, bổ sung 15 trong số 51 điều của luật hiện hành; bãi bỏ một số khoản, điểm, từ ngữ ở một số điều cho phù hợp các quy định của pháp luật hiện hành. Thí dụ khoản 1, Ðiều 16 Luật hiện hành quy định: "Học viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan tại ngũ được phong quân hàm Thiếu uý; trường hợp tốt nghiệp loại giỏi hoặc tốt nghiệp loại khá mà đã tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động thì được phong quân hàm Trung úy".

Dự thảo Luật đề nghị sửa đổi là: Học viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan tại ngũ được phong quân hàm Thiếu úy; trường hợp tốt nghiệp loại giỏi, tốt nghiệp loại khá ở những ngành tuyển chọn, đào tạo công phu hoặc có thành tích xuất sắc trong công tác được phong quân hàm Trung úy, nhằm khuyến khích thu hút tuyển chọn được nhân tài phục vụ quân đội, nhất là những lĩnh vực mang tính đặc thù quân sự. Ngoài những điều kiện, tiêu chuẩn chung, đào tạo sĩ quan quân đội ở một số chuyên ngành (như phi công, đặc công, tàu chiến đấu, tên lửa, radar...) phải được tuyển chọn và đào tạo công phu.

Trong thảo luận, các ý kiến phát biểu đều nhất trí với Tờ trình về sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật Sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam (năm 1999) cho phù hợp tình hình mới nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ sĩ quan-lực lượng nòng cốt xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Các đại biểu đã cho nhiều ý kiến về các vấn đề cơ bản của dự thảo luật, đó là: chức vụ sĩ quan (Ðiều 11), tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan (Ðiều 13), cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan tại ngũ (Ðiều 15), chính sách đối với sĩ quan (Ðiều 31), và một số nội dung cụ thể khác như thẩm quyền quyết định đối với sĩ quan, đối tượng được phong quân hàm sĩ quan tại ngũ, thăng quân hàm sĩ quan trước thời hạn.