Thách thức sinh tồn của gạo Việt

NDĐT - Để đưa hạt gạo Việt Nam lên cao hơn trên chuỗi giá trị toàn cầu nhằm mang lại nhiều thành quả hơn cho người nông dân, chúng ta cần triển khai các chính sách mới để có thể sớm thay đổi toàn diện ngành sản xuất lúa gạo.

Thách thức sinh tồn của gạo Việt

Cuối năm 2016, một đoàn nghiên cứu đã tới đồng bằng sông Cửu Long đánh giá kết quả sau sáu năm thực hiện Nghị định 109/2010/NĐ-CP (Nghị định 109) của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo. Trên thực tế, đến nay Nghị định 109 đã tạo ra nhiều rào cản gia nhập ngành, bắt buộc các doanh nghiệp phải “trường vốn” để xây dựng khu nguyên liệu, nhà máy xay xát, kho dự trữ,… với công suất lớn. Thí dụ, Nghị định 109 yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu gạo phải có kho dự trữ 5000 tấn/năm và đủ khả năng xuất khẩu 20 nghìn tấn/năm mới cấp giấy phép. Như vậy, có thể nói Nghị định 109 khuyến khích hoạt động xuất khẩu gạo về số lượng, ưu tiên các “ông lớn” trong ngành, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước.

“Nghị định khi đưa ra là có ý tốt, khi ấy tôi hoàn toàn ủng hộ”, đại diện Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) ở Cần Thơ nhớ lại. “Lúc đó, nó sẽ giúp loại bỏ các doanh nghiệp chỉ mua đi bán lại để kiếm lời. Thế nhưng, khi hoàn cảnh khách quan thay đổi thì lại thành rào cản để hạt gạo Việt Nam đi lên”.

Hoàn cảnh khách quan mà đại diện VCCI nhắc tới là sự thay đổi trong cấu trúc ngành lúa gạo thế giới. Xét từ bối cảnh, thì Nghị định 109 ra đời khi nhu cầu về gạo trên thế giới đang tăng cao sau khủng hoảng lương thực năm 2008, quốc gia nào cũng cần gạo dự trữ và để cứu đói, bất kể chất lượng. Vì vậy chúng ta cần dồn toàn lực làm gạo ba vụ giá rẻ, tập trung xuất khẩu số lượng thay chất lượng. Ngành gạo “tăng trưởng nóng” buộc Nhà nước phải can thiệp bằng chính sách để “dẹp loạn”. Nhưng tới hiện tại, nhu cầu gạo giá rẻ đang giảm mạnh, thị trường thế giới chú trọng nhiều hơn đến sản phẩm chất lượng cao. Từ đó doanh nghiệp nhỏ, hoặc tập trung thị trường gạo chất lượng cao với số lượng xuất khẩu không nhiều, vì gặp phải trở ngại lớn từ Nghị định 109.

Trao đổi tại hội thảo mới đây về sửa đổi Nghị định 109 ở Thành phố Hồ Chí Minh, ông Ngô Văn Nam, Tổng giám đốc công ty TNHH ADC cho biết, các điều kiện của doanh nghiệp đều vượt xa quy định, nhưng để đơn giản hóa thủ tục và tiết kiệm chi phí khi xin giấy phép kinh doanh xuất khẩu gạo thì họ phải dùng số liệu của một công ty khác, vốn có tiêu chuẩn vừa đủ.

“Bối cảnh thị trường xuất khẩu gạo ở thời điểm ban hành Nghị định 109 và hiện nay khác nhau rất nhiều. Để nhận được hợp đồng xuất khẩu, đặc biệt với những thị trường khó tính thì hầu như công ty nào cũng bắt buộc cam kết việc đảm bảo vùng nguyên liệu và truy xuất nguồn gốc. Thế nên các quy định như tăng diện tích vùng nguyên liệu thêm từ 300 đến 800ha mỗi năm, tùy theo sản lượng xuất khẩu trở là không cần thiết”, ông Nam cho biết.

Theo dự báo của Tổ chức Lương thực Thế giới (FAO), sản xuất gạo sẽ có tốc độ tăng trưởng mạnh trong các năm tới nhờ việc gia tăng diện tích trồng lúa, số vụ trồng lúa và cải thiện năng suất trồng trọt. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ gạo trên toàn cầu chỉ tăng chậm đến năm 2030, sau đó sẽ chuyển sang xu hướng giảm. Các nước nhập khẩu gạo truyền thống như Indonesia, Philippines đã có chiến lược tự cung lúa gạo. In-đô-nê-xia là nước nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới, vào năm 2011 là 3,1 triệu tấn; tuy nhiên, năm 2013 chỉ còn có 650 nghìn tấn. Indonesia tuyên bố năm 2017 sẽ không nhập khẩu gạo, vì sản xuất trong nước đã đủ dùng.

Trong khi đó, các nước xuất khẩu gạo mới như Ấn Độ, Campuchia và Myanmar đang có mức tăng trưởng mạnh. Ấn Độ là nước bứt phá mạnh mẽ nhất trong xuất khẩu gạo, với sản lượng xuất khẩu tăng gần hai lần, từ 4.637 nghìn tấn trong niên vụ 2010-2011 lên 10.901 tấn trong niên vụ 2013-2014 và trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Campuchia tăng sản lượng xuất khẩu từ mức 750.000 tấn trong niên vụ 2009-2010 lên mức 1 triệu tấn trong niên vụ 2013-2014 tại những thị trường ưu tiên chất lượng như châu Âu và Malaysia. Myanmar cũng tăng gần gấp đôi sản lượng xuất khẩu từ 700.000 tấn lên 1,3 triệu tấn. Nếu trước đây, ngành gạo toàn cầu chỉ có Thailand và Việt Nam, thì giờ đây lĩnh vực này trở nên chật chội.

Trong bối cảnh như vậy, tất yếu là ngành gạo của Việt Nam bị đẩy vào tình trạng bi đát. Năm 2016, xuất khẩu gạo giảm 700 triệu USD so với kim ngạch năm 2015 (2,8 tỉ USD); giảm 800 triệu so với năm 2014 và năm 2013 (đều đạt 2,9 tỉ USD). Tháng 1-2017, xuất khẩu gạo tiếp tục rơi tự do, khi chỉ ước đạt 325.000 tấn với giá trị khoảng 136 triệu USD, giảm 32% về lượng và trên 35% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Và rõ ràng ngành gạo không còn là “mỏ vàng” như trước. Đối diện với thách thức sinh tồn đó, nếu tiếp tục tăng sản lượng, không chú trọng chất lượng gạo, toàn bộ chuỗi giá trị gạo của Việt Nam sẽ thiệt hại năng nề, và người nông dân sẽ thiệt thòi nhất.

Tất nhiên, người Việt chưa bao giờ cam chịu trước hoàn cảnh. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gạo đã nhìn thấy vấn đề và đang chuyển từ xuất khẩu gạo giá rẻ sang gạo chất lượng cao, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, nâng cao thu nhập của nông dân thực hiện theo chuỗi sản xuất. Một tấn gạo chất lượng cao xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Singapore có thể lên tới 1000USD, trong khi đó, nếu xuất khẩu dưới dạng giá rẻ chỉ đạt khoảng 600USD/tấn. Song sáng tạo của doanh nghiệp và mồ hôi của nông dân là chưa đủ. Ngành gạo cần thêm chính sách của Nhà nước để tái xây dựng ngành theo hướng chất lượng cao, phục vụ nhu cầu đã thay đổi của thị trường. Đáng tiếc là chính sách hiện đang cản trở thay vì nâng đỡ xu hướng đó. Bởi Nghị định 109 với các quy định ưu tiên số lượng đã chặn đứng cửa kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo chất lượng cao. Như đại diện của một doanh nghiệp tại Đồng Tháp bày tỏ: quy định như bắt xây kho dự trữ 5000 tấn hay phải xuất khẩu 20 nghìn tấn mới được giấy phép chẳng khác nào bắt mua dao mổ trâu để giết ruồi.

“Nếu đầu tư theo quy định, chúng tôi chỉ sử dụng kho và nhà máy xay xát 2 tháng/năm rồi bỏ không, vì gạo chất lượng cao không xuất khẩu với số lượng lớn như thế”, doanh nghiệp Cỏ May ở Châu Thành cho biết.

Khảo sát ở địa bàn đồng bằng sông Cửu Long, hiện tượng doanh nghiệp vay vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để đủ điều kiện xuất khẩu gạo rồi chịu lỗ nặng là rất nhiều. VCCI cho biết, nhiều khoản vay là nợ khó đòi, vì doanh nghiệp cũng kiệt quệ do thị trường đi xuống, không biết bao giờ mới trả nổi. Doanh nghiệp mất vốn kinh doanh, Nhà nước mất vốn cho vay ưu đãi, nông dân mất đầu ra ổn định, còn xã hội chịu tổn thất, lãng phí từ những hạ tầng hoành tráng nhưng không được sử dụng. Tất nhiên, chúng ta không thể vừa muốn bán tống bán tháo theo kiểu hàng giá rẻ Trung Quốc, lại vừa có giá trị cao như sản phẩm chất lượng hảo hạng của Nhật Bản. Điều đáng buồn là Nghị định 109 chỉ là một trong số nhiều chính sách theo lối tư duy bằng tiêu chí số lượng đang là “vòng kim cô” cho ngành gạo Việt.

Không thể phủ nhận trong thời gian đầu, sau khi xóa bỏ chính sách tập trung, bao cấp, tư duy số lượng đã mang lại thành công vượt bậc. Sau một hành trình dài, ngành lúa gạo có bước phát triển “thần kỳ”, từ một nước phải nhập khẩu gạo cứu đói Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Song dễ nhận thấy là thành tích đó chưa mang lại nhiều giá trị thặng dư cho ngành, đặc biệt, chưa tạo ra được sự thay đổi tích cực trong thu nhập cho người nông dân. Nông dân Việt Nam hiện là nhóm có thu nhập bình quân thấp nhất cả nước, và nếu tính trong khu vực Đông Nam Á, thì chỉ cao hơn nông dân ở Cam-pu-chia. Trong rất nhiều nguyên nhân của tình trạng, đáng chú ý là trong suốt 30 năm, Việt Nam chỉ tập trung gia tăng sản lượng lúa gạo, thay vì nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra mặt hàng có thương hiệu và giá trị gia tăng cao hơn. Các chính sách hiện tại vẫn hướng Việt Nam tiếp tục đi theo lối mòn là gia tăng sản lượng và khuyến khích xuất khẩu.

Nói như chuyên gia lúa gạo hàng đầu, GS. Võ Tòng Xuân, ngành lúa gạo Việt Nam “dưới sự cổ vũ của nhà nước, chỉ thích trồng giống lúa nào cho năng suất thật cao, mà ít quan tâm đến chất lượng thơm ngon”.

Điều này khiến chúng ta sẽ rơi vào tình trạng sản xuất gạo dư thừa, chất lượng gạo thấp, tạo ra hệ lụy xấu cho sự phát triển bền vững của nông nghiệp và đời sống của nông dân. Chỉ riêng điều kiện ngặt nghèo về giấy phép kinh doanh xuất khẩu gạo cũng đã đẩy tới tình trạng chỉ có một số lượng nhất định các doanh nghiệp quy mô lớn mới có thể tham gia thị trường, nhưng khả năng xuất khẩu của họ cũng hạn chế, không thể bao quát mọi ngóc ngách của thị trường. Vì lượng dư thừa trong nước quá lớn, rất nhiều thương nhân nhỏ đã đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tiểu ngạch để cân bằng thị trường. Khi điều kiện kinh doanh càng cao, hoạt động xuất khẩu tiểu ngạch này càng chiếm tỷ trọng lớn trong quy mô xuất khẩu.

Thực tế, gạo đang bị đẩy ra ngoài hoạt động xuất khẩu chính thức, xuất hiện nhiều rủi ro tiềm ẩn cho thị trường gạo Việt Nam. Năm 2013, lượng gạo xuất khẩu tiểu ngạch ước tính lên đến khoảng 1,6 triệu tấn, trong khi tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đạt khoảng 6,6 triệu tấn và như vậy, quy mô xuất khẩu tiểu ngạch bằng 24,2% quy mô xuất khẩu chính ngạch. Cũng theo số liệu ước tính năm 2015 của Agromonitor (tổ chức nghiên cứu thị trường), quy mô này năm 2014 tăng lên khoảng 26,4% với 1,68 triệu tấn theo đường tiểu ngạch và 6,47 triệu tấn theo đường chính ngạch.

Trao đổi thêm về “bài học sinh tồn” của ngành gạo, ông Võ Hùng Dũng, giám đốc VCCI Cần Thơ cho rằng thành công của ngành xuất khẩu thuỷ sản, với việc cởi trói các điều kiện kinh doanh, để các doanh nghiệp tự do tìm kiếm và mở rộng thị trường chính là hình mẫu lý tưởng.

“Ngành gạo cần học cá tra không cần xin giấy phép xuất khẩu, ký hợp đồng không cần xin phép hiệp hội. Xây dựng các chế tài xử phạt những doanh nghiệp vi phạm về chất lượng, cạnh tranh khi xuất khẩu,” ông Dũng nói.

Các vấn đề nêu trên đang được các nhà hoạch định chính sách quan tâm, nhất là trong bối cảnh Chính phủ đang nỗ lực xây dựng theo hướng kiến tạo phát triển, tạo môi trường kinh doanh tốt nhất để phát huy tính chủ động, sáng tạo của doanh nghiệp. Những lớp lang về quy định về số lượng đang được dần dỡ bỏ. Cuối năm 2016, Văn phòng Chính phủ đã có Công văn số 10257 /VPCP-KTTH yêu cầu Bộ Công thương rà soát, đánh giá lại việc thực hiện Nghị định 109, làm cơ sở cho việc sửa đổi vào giữa năm nay. Đầu năm 2017, Bộ trưởng Bộ Công thương đã ký quyết định bãi bỏ Quyết định số 6139/QĐ-BCT về Quy hoạch thương nhân kinh doanh và xuất khẩu gạo, vốn được coi là “con đẻ” của rào cản ngành xuất khẩu gạo. Tại hội nghị trực tuyến cuối năm 2016 của ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã yêu cầu phải thay đổi căn bản ngành nông nghiệp, trong đó có lúa gạo. Thủ tướng chỉ đạo cần phải thiết lập chuỗi liên kết ngành giữa doanh nghiệp và nông dân, dỡ bỏ những điều kiện kinh doanh không cần thiết, hỗ trợ vốn cho những doanh nghiệp sản xuất chất lượng cao, đồng thời xem xét lại chính sách hạn điền. “Dư địa tăng trưởng nông nghiệp còn lớn, đây cũng là câu hỏi lớn đặt ra hôm nay”, Thủ tướng nêu rõ.

Tin rằng sự chỉ đạo và hành động cụ thể từ các nhà làm chính sách sẽ tạo động lực lớn để ngành lúa gạo thay đổi chiến lược phát triển, và không còn tình trạng “tại sao xuất khẩu nhiều nhưng vẫn nghèo”. Phần còn lại phụ thuộc vào nỗ lực, quyết tâm của các doanh nghiệp, của nông dân, chính quyền địa phương và của cả người tiêu dùng, để xây dựng một ngành gạo Việt Nam có giá trị cao và bền vững.

Có thể bạn quan tâm