Tây Nguyên nỗi nhớ làng rừng

Tây Nguyên nỗi nhớ làng rừng

Ðã trọn ba mươi năm sau giải phóng, năm nào cũng vậy, để thỏa mãn nỗi nhớ của mình, dù khó khăn đến mấy tôi cũng cố tự tìm cho mình một vài cơ hội để về lại được với buôn làng. Ở nơi ấy tôi có bạn bè, có bà con anh em, và có toàn bộ tuổi trẻ của mình. Tôi tự nhận đó là quê hương thứ hai của tôi.

Con gái tôi năm nay mười chín tuổi. Thỉnh thoảng cháu lại hỏi: Sao con thấy bố lúc nào cũng khắc khoải với quá khứ ? Tôi bảo cháu, quá khứ của bố, tuổi trẻ của bố toàn bom đạn tang thương khốc liệt lắm. Bố sống được cũng bởi tấm lòng thương yêu và sự chở che của bà con buôn làng.

Tôi nhớ  hồi ấy anh em chúng tôi cũng cùng trang lứa với con gái tôi bây giờ. Có những chú lính nhỏ hơn, mới độ chừng mười ba, mười bốn tuổi, được cơ sở đưa lên rừng theo cách mạng, như anh em Phụng và Tái. Chúng lên được rừng rồi mà cứ khóc mãi chỉ vì phải bỏ lại một con bò. Chiến tranh không cho cánh lính chúng tôi nhiều thời gian để tính toán. Cây súng ga-răng thời cha anh chống Pháp còn lại lúc ấy vẫn còn tác dụng, nó còn cao hơn đầu chú bé mười ba tuổi, nhưng công việc của chú là phải ôm cây súng ấy cùng các chú, các bác, các anh vào trận, và nẹt rồi - theo cách nói của cánh bộ đội địa phương miền Trung Trung Bộ chúng tôi - đâu cũng vô đó hết.

Không chỉ có thế, cánh lính Bắc chúng tôi vô tới huyện đội, về các đội công tác, chỉ trong một đêm cơ cấu đã chuyển ra thành dân sự, thành du kích địa phương. Ðó là nhiệm vụ, đó là yêu cầu chung của cách mạng, chỉ cần giải thích như thế là tất cả đều thông. Vậy mà bây giờ Ðoàn Minh Phụng đã trở thành Bí thư Huyện ủy, rồi Tổng biên tập của tờ báo tỉnh nhà.

Thói quen của chúng tôi là hễ vui buồn cũng đều nhớ về ngôi làng rừng thuở trai trẻ ấy. Nhớ phong tục, trước mùa thu hoạch bà con phải làm lễ "rước Mẹ Lúa" từ rẫy về kho. Nhớ những cối cốm, những mẹt cốm thơm cả cánh rừng, nhớ đôi mắt treo lúc nào cũng lúng liếng của cô BYắt. Nhớ cái eo lưng vừa mềm, vừa dẻo, vừa cong của cô H'Ngươl, nay về lại làng xưa, kể chuyện ở rừng hồi ấy chúng tôi bẫy một lúc được hàng trăm con cu xanh bằng cách lấy nhựa cây dính vào lá cây da, chim sà xuống, cánh dính nhựa, rụng bồm bộp, vồ chim, bắt chim vang động cả một cánh rừng.

 
Lễ hội đua voi ở Tây Nguyên thường diễn ra vào mùa xuân.

Thời ấy, một đêm đội đèn đi bắn, không được nai cũng được mang, không có mang mèng lắm cũng "đoàng" được con cheo, con thỏ rừng. Chuyện ba chục năm trước nhắc lại với nhau như mới hôm qua, vậy mà với cánh thanh niên bây giờ nghe cứ như chúng tôi đang kể chuyện cổ tích! Vâng. "Mẹ Lúa" bây giờ được xuống đất bằng, có mương nước, có ruộng nước tươi tốt hơn xưa và "Mẹ Lúa" về kho cũng đơn giản gọn nhẹ, dễ dàng hơn thời chúng tôi nhiều. Thung lũng IaÐrăng hôm nay tôi về đi đến đâu cũng thấy rầm rập xe công nông, xe bò chở sắn khô ra, chở các vật dụng sinh hoạt vào. Ðể có được những khoảnh ruộng vàng rộm dâng hương lúa mới dưới triền thung kia, để có được hạt thóc như hạt thóc nhà ông AHo, nhà anh Ðinh Miết bạn tôi ở làng mới định cư đây đâu phải chuyện bình thường. Bao nhiêu công trình lớn nhỏ đã và đang hoàn thành. Bao nhiêu của cải của dân, của nước phải trải qua không biết bao nhiêu chuyện mới cũ, đúng sai. Ở trên kia là rừng già, là làng buôn cũ với ngàn đời phong tục. Ở dưới này là hồ, là ruộng, là điện - đường - trường - trạm. Vậy mà đối với ông Rơlan Liêng và các già làng thì ngược lại, bởi trong lòng ai cũng mang nặng nỗi nhớ rừng già, nhớ làng cũ khôn nguôi. Người già nhớ chuyện cũ, đó là câu thành ngữ của người Gia Rai. Thanh niên thích leo núi (De T'tămh văh haoh kôông!) - đó là câu thành ngữ của người Ba Na, nhiều lúc nhớ lại cứ khiến tôi chạnh nghĩ, đối với bà con các dân tộc Tây Nguyên, rừng là tất cả.

Nói đến làng rừng Tây Nguyên là nói đến những luật tục có liên quan đến sự sống còn của con người và sự tồn tại của rừng. Mỗi thành viên của cộng đồng làng gắn bó với nhau tạo nên sức mạnh để tồn tại và hòa nhập với rừng, với thiên nhiên.

Tôi trở lại làng PleiO, gặp  những người thân xưa cũ. Già Triêm, Già Rim, già Díp, anh Hyaih. Làng mới định cư xuống núi hàng chục năm rồi, vậy mà nếp sinh hoạt xưa cũ quần tụ với nhau quanh bến nước, quanh nhà rông vẫn là niềm vui của mọi người.

Gần ba mươi năm sau giải phóng rồi. Làng xuống núi có nhà ngói định cư rồi! Vì sao vẫn đói? Vì sao còn nghèo? Vì sao cái tập quán phát, đốt, choọc, trỉa, tuốt lúa bằng tay trên nương cũ đưa "Mẹ Lúa" về kho xa tít trên rừng già vẫn là niềm vui niềm hân hoan của bà con ? Cán bộ  địa phương trên tỉnh, trên huyện, trên Trung ương có biết vì sao không ? Có. Có nhiều người biết, có nhiều người hiểu. Nhưng cũng có không ít người vì không hiểu mà chỉ đổ cho phong tục lạc hậu, đổ cho bà con dốt nát. Mình không dốt nát, lạc hậu đâu. Dân tộc mình ưng sống thế mà. Một câu nói ấy của già làng khiến tôi không cầm lòng được, tự thấy mình có lỗi với bà con.

Tại sao có đơn giản vậy mà mãi ta không hiểu ra nhỉ? Ðã là tập tục nghĩa là thói quen ngàn đời, bên trong những thói quen ấy là cả một bề dày văn hóa nương rẫy, mình không phải dễ thay đổi một lúc đâu! Sức nặng của tập tục lại trở thành vật cản trước cái mới, khi rừng già không còn là nơi nương tựa của cộng đồng. Khi việc cúng Thần, cúng Giàng không còn đem lại nỗi phấp phỏng tâm linh mong đợi một sự ấm no, thì ti-vi, xe máy và bao nhiêu sản phẩm văn minh hiện đại cũng không thay thế được nỗi nhớ rừng.

Làng của người Tây Nguyên được hình thành từ nền văn minh trồng cây lúa khô nương rẫy. Ðó là một tổ chức xã hội gần như duy nhất và cũng là cội nguồn của nền văn hóa bản địa. Trong sinh hoạt cộng đồng, mỗi khi nhà nào có việc, liền được sự đóng góp chung của mọi người. Ghè rượu quý nhất của mỗi gia đình được đem đến cùng chia sẻ. Niềm vui, nỗi buồn của mỗi người cũng là niềm vui, nỗi buồn chung của cả buôn  làng. Cái sợ lớn nhất của con người ở đây là một khi bị buộc phải tách ra khỏi cộng đồng. Ðiều ấy còn sợ hơn cả cái chết.

Bởi vậy, tôi nghĩ, Tây Nguyên, từ cội nguồn của văn hóa làng rừng tạo nên sắc thái riêng biệt, độc đáo mà chỉ nơi đây - miền rừng nối tiếp miền rừng mới có. Những quần thể tượng nhà mồ hồn nhiên, sinh động hòa nhập vào tự nhiên như vẻ đẹp nguyên sơ của tâm hồn người. Mái ấm nhà rông chính là nơi quần tụ cộng đồng để các già làng lo việc chung, phân xử đúng sai và cũng là nơi trai tráng tụ tập phòng khi bất trắc.

Văn hóa dân tộc nói chung vốn gắn liền với đời sống của cộng đồng. Một khi điều kiện sống thay đổi thì cũng sinh ra lắm chuyện. Làm sao giữ được nhà rông ? Chúng ta không thể làm thay bà con, nhưng sự hỗ trợ (đúng) là rất cần thiết. Vì sao tôi lại ngoặc đơn ra cái chữ "đúng" này, bởi nhiều năm nay ta đầu tư cho nhà rông không ít, mà hiệu quả đem lại lại không nhiều, nếu nói không sợ sai, như cách nói của họa sĩ Xu-Man, người bạn già của tôi về hưu, sống cùng bà con ở làng PLeiBung, ấy là "đầu tư hỗ trợ trật lấc". Vì sao sai? Vì các nhà quản lý và các nhà đầu tư không hiểu vẻ đẹp văn hóa lâu đời của nếp sinh hoạt nhà rông, mà chỉ muốn "cải tạo" nó thành ra hội trường! Nhà rông là nét đẹp văn hóa riêng của buôn làng rừng Tây Nguyên. Giữ được nó tức là giữ được cái hồn cốt của nét đẹp sinh hoạt cộng đồng. Ðời sống tâm linh của người Tây Nguyên vô cùng phong phú. Bà con cho rằng bên trong mỗi cái cây, ché rượu, hòn đá, bầu nước, mọi vật quanh ta đều có linh hồn. Ðiều đó thể hiện sự tôn trọng sâu xa đối với tự nhiên. Tôi chợt thấy lo khi môi trường thay đổi, khi cái tín ngưỡng đa thần giáo ấy không còn giữ được, thì điều gì sẽ diễn ra ? Cái gì sẽ thay thế?

Ở Tây Nguyên ngày nay, rừng và làng đâu có còn quần tụ như xưa ? Làng mới chuyển ra hai bên mặt đường thành ra nửa phố, nửa làng. Cuộc sống mới kéo theo biết bao đổi thay về phong tục tập quán. Ði tới đâu tôi cũng gặp cái hân hoan phấn khởi của lớp trẻ, và bên cạnh đó là nỗi khắc khoải nhớ rừng của người già. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tất yếu. Nhưng đằng sau nó là cả một vấn đề lớn về xã hội và con người.

Ðể biến những ý tưởng và khao khát của chúng ta: Làm sao để có được một Tây Nguyên giàu đẹp, giữ được bản sắc văn hóa riêng thành hiện thực, tôi cứ nghĩ đi nghĩ lại, chuyện này không thể nôn nóng, đâu phải chuyện một sớm một chiều. Tây Nguyên, mái nhà chung của chúng ta. Ðến với xứ sở này không phải chỉ là đến với một vùng đất đầy tiềm năng để khai thác, mà trước hết, cần đến từ những tấm lòng.

Cách đây hơn chục năm, tôi có tới một làng sâu hun hút trên đỉnh KonPơlông, tình cờ gặp cô giáo Thanh. Thanh còn rất trẻ, mới 18 tuổi, quê cô ở mãi Ninh Bình, thế có nghĩa là, cô cũng chỉ bằng tuổi cánh tôi hồi mới vào Nam thời đánh Mỹ. Cái ngày gặp Thanh  ấy chúng tôi thường gọi đùa với nhau là thuở đường đất chân trần. Bây giờ về lại, tôi đi tìm Thanh, mới biết cô đã mất trong một tai nạn. Không hiểu Thanh có biết trường của cô, của các em vẫn ở trên đỉnh núi cao nhất nhì Tây Nguyên ấy, nhưng không còn phải "du dạy - du học" như hồi ấy cô nói đùa với tôi. Nay các thầy, các trò đã có trường có lớp khang trang. Thanh cũng như các thầy, các cô đã đem tuổi trẻ của mình lên đây để mong cái nội lực phi thường của văn hóa thức dậy cùng nhịp sống mới.

Rừng và làng là hai yếu tố cấu thành nền văn hóa cộng đồng độc đáo, lâu đời... Văn hóa làng rừng ở Tây Nguyên chính là nguồn lực, là tiềm năng của sự phát triển. Khôi phục làng rừng ở Tây Nguyên cũng là khôi phục nguồn gốc của văn hóa. Văn hóa Tây Nguyên dường như đã trao cho các nghệ nhân của mình cái bản năng sinh tồn mà nếu ta biết trân trọng một cách chân thành thì đó chính là nguồn sống vô tận.

Cũng giống như câu chuyện ở dưới chân núi Kon Chơ Ro xa xôi có một cặp vợ chồng nghệ sĩ. Họ đã từng là những người rất nổi tiếng, đi khắp đó đây, về sống trong một căn nhà sàn nhỏ bé sát mé rừng do bà con buôn làng dựng cho. Ðó là nghệ sĩ hát và múa lừng danh một thời, một nhà giáo khiêm nhường đã về hưu, tên chị là H'Ben, người Ba Na và anh Thịnh, nghệ sĩ đàn vi-ô-lông thuở nào, chồng chị, một chàng trai Hà Nội đắm đuối suốt đời cùng Tây Nguyên, nay cũng đã về hưu.

Ngày ngày hai vợ chồng anh chị rủ nhau vào làng để nghe đồng bào hát và họ lặng lẽ ghi lại những bản dân ca, những điệu dân vũ, những bài h'amon (bài hát kể mà chúng ta vẫn gọi là trường ca) dài bất tận như lịch sử thăng trầm của con người ở xứ sở này. Ðó là nhu cầu tự thân của anh chị, như là cơm ăn, nước uống, như là khí trời để thở vậy. Không có ai tài trợ, chỉ có đồng bào tài trợ tình cảm cho mình thôi, chị trả lời nhà báo khi nhà báo hỏi câu "tài trợ".

Vâng tôi cũng có biết, Nhà nước đã đầu tư cho việc khai thác trường ca ở đất này lên đến 21 tỷ đồng! Kể con số đó cũng gây ấn tượng và hấp dẫn lắm lắm. Nhưng thôi, đó là chuyện khác. Chuyện của tôi,  mỗi lần trở lại Tây Nguyên bao giờ  tôi cũng "đi tranh thủ" về căn nhà sàn bé nhỏ của anh chị, bên ghè rượu cần, anh chị hát những làn điệu dân ca Ba Na cổ mới khai thác được, kể những câu chuyện cổ thuở xa xưa nơi đây là rừng thiêng mới tìm ra qua miệng của người già cho tôi nghe. Và anh chị em chúng tôi lấy đó là niềm vui, là hạnh phúc.

Có thể bạn quan tâm