Chiều 26/12, Viện Dinh dưỡng (Bộ Y tế) tổ chức hội nghị về“Vận động, đầu tư và tăng cường phối hợp liên ngành cho hoạt động của Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045” với sự tham dự của đại diện các bộ, ban, ngành, một số địa phương các tổ chức quốc tế.
Theo PGS,TS Trương Tuyết Mai, Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng, trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe toàn dân, song vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức.
Giải quyết các vấn đề về dinh dưỡng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Mặc dù tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em đã giảm mạnh trong những năm qua, nhưng vẫn còn chênh lệch vùng miền, đặc biệt là tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi; tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng ở phụ nữ có thai, trẻ dưới 5 tuổi và phụ nữ tuổi sinh đẻ còn ở mức cao. Trong khi đó, tình trạng thừa cân béo phì, nhất là ở trẻ em tuổi học đường và người dân sống ở vùng thành thị.
Mặt khác, còn nhiều yếu tố nguy cơ làm gia tăng tình trạng rối loạn chuyển hóa, nguy cơ mắc bệnh mạn tính không lây có liên quan đến dinh dưỡng, như: tiêu thụ ít rau, lối sống tĩnh tại ít vận động, tiêu thụ nhiều các loại thức ăn nhanh, thức ăn chứa nhiều đường tự do, nhiều muối....
PGS,TS Trương Tuyết Mai, Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng chia sẻ những giải pháp thực hiện chiến lược quốc gia về dinh dưỡng. |
Kết quả Tổng điều tra dinh dưỡng cho thấy tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ dưới 5 tuổi (chiều cao/tuổi) giảm dần, từ 29,3% (năm 2010) xuống 19,6% (năm 2020) và 18,9% (năm 2022). Tuy nhiên, tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em có sự khác biệt lớn giữa các vùng, miền, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi vẫn có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao so trung bình cả nước.
Tình trạng thiếu vitamin A, thiếu máu thiếu sắt và thiếu kẽm vẫn là các vấn đề có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng. Đến 2020, tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em dưới 5 tuổi là 19,6%; tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ có thai và không có thai tương ứng 25,6% và 16,2%; tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ em dưới 5 tuổi là 9,5%; tỷ lệ thiếu kẽm ở trẻ dưới 5 tuổi là 58% và phụ nữ có thai là 63,5%...
Tỷ lệ thừa cân béo phì đang gia tăng nhanh chóng, ở tất cả các lớp tuổi và ở tất cả các khu vực thành thị cũng như nông thôn. Thừa cân béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi là 7,4% (9,8% ở thành thị và 5,3% ở nông thôn) và 19% ở trẻ em lứa tuổi học đường. Tỷ lệ người trưởng thành thừa cân béo phì là 19%.
Để giải quyết các vấn đề dinh dưỡng và tiếp tục phấn đấu đạt các chỉ tiêu cơ bản về sức khoẻ của nhân dân ta, ngày 5/1/2022, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Từ năm 2020-2022, Chính phủ đưa các hoạt động cải thiện dinh dưỡng thực hiện trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025; Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 và Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 và một số các đề án, chương trình liên quan. Ngày 19/5/2022, Bộ trưởng Y tế phê duyệt Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng đến năm 2025.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số vấn đề khó khăn, thách thức trong quá trình thực hiện Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng trên toàn quốc như: chưa hoàn thiện chính sách về dinh dưỡng, thiếu nguồn lực đầu tư cho dinh dưỡng ở một số nhiệm vụ, nhân lực cán bộ thực hiện công tác chăm sóc dinh dưỡng cho người dân còn thiếu và chưa đảm bảo về chất lượng, tính phối hợp liên ngành chưa cao, kiến thức thực hành dinh dưỡng của người dân còn hạn chế, truyền thông và giám sát dinh dưỡng chưa thực hiện đầy đủ.
Theo Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc và Ngân hàng Thế giới, chỉ cần đầu tư 1 USD chi phí dinh dưỡng cho trẻ trong 1.000 ngày đầu đời thì tương lai sẽ thu lại được 18 USD; trẻ em được điều trị khỏi thấp còi có khả năng thoát khỏi đói nghèo tới 33% khi trưởng thành, góp phần cho tăng trưởng GDP quốc gia từ 3-10%.
Do đó, để thực hiện thành công các chỉ tiêu, mục tiêu của Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng đến năm 2030 một cách bền vững, cần tiếp tục huy động các cấp các ngành, tổ chức quốc tế, xã hội và người dân để đầu tư về cả về chính sách và nguồn lực nhằm thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp cho dinh dưỡng.
Các chuyên gia khuyến cáo các gia đình cần thường xuyên theo dõi tăng trưởng của trẻ. |
Các đại biểu tham dự hội nghị đã thảo luận và thống nhất trí một số đề xuất, kiến nghị tới Chính phủ, các bộ, ban, ngành liên quan, các tổ chức quốc tế, lãnh đạo các cấp và toàn xã hội hãy cùng chung tay, quan tâm tăng cường đầu tư và đẩy mạnh công tác phối hợp liên ngành cho các hoạt động triển khai Chiến lược quốc gia dinh dưỡng trong giai đoạn tới.
Theo đó, cần xây dựng và thực thi hiệu quả chính sách dinh dưỡng (như: việc đưa dinh dưỡng trong luật phòng bệnh, được chi trả bảo hiểm y tế…); tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp giảm sự chênh lệch vùng miền, dân tộc về tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi; cải thiện tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng (đặc biệt là tình trạng thiếu kẽm, thiếu máu) ở phụ nữ có thai, trẻ dưới 5 tuổi và phụ nữ tuổi sinh đẻ.
Đồng thời, tập trung kiểm soát tình trạng thừa cân béo phì trẻ 5-19 tuổi và người trưởng thành ở thành phố, thành thị; kiểm soát tốt tình trạng rối loạn chuyển hóa, giảm nguy cơ mắc bệnh mạn tính không lây liên quan đến dinh dưỡng; đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ về dinh dưỡng, thực phẩm phù hợp cho người Việt Nam; xây dựng kế hoạch ứng phó dinh dưỡng khẩn cấp để thích ứng với tình trạng biến đổi khí hậu, môi trường
Ngoài ra, cần tăng cường phối hợp liên ngành cho hoạt động dinh dưỡng từ trung ương xuống tỉnh, huyện, xã; có cơ chế huy động và sử dụng nguồn lực, lồng ghép (trung ương, địa phương, quốc tế, doanh nghiệp, tư nhân…); chủ động hội nhập, hợp tác quốc tế về dinh dưỡng, giải quyết các vấn đề về dinh dưỡng mang tính toàn cầu và khu vực.