10 yếu tố này tích hợp lại có thể mô tả thành giản đồ trạng thái phát triển của thế giới trong thời đại chúng ta theo một hệ tọa độ không gian ba chiều. Trong đó, chiều cao (z) là sự phát triển của khoa học công nghệ, chiều ngang (x) là tiến trình toàn cầu hóa kinh tế và chiều dọc (y) là xu thế hòa bình và hợp tác trong nền chính trị thế giới.
Sự phát triển của khoa học - công nghệ: Trong thế giới ngày nay, khoa học - công nghệ phát triển rất nhanh, nhanh hơn rất nhiều so với bất cứ thời kỳ nào trước đó.
Có thể mô tả tốc độ phát triển của khoa học công nghệ theo đồ thị sau:
Từ đồ thị, ta thấy từ nửa đầu thế kỷ 20 trở về trước, đường cong phát triển của khoa học - công nghệ biến đổi chậm. Nhưng, bắt đầu từ nửa thế kỷ sau, nó diễn ra với tốc độ rất nhanh. Thêm vào đó, tính tương tác giữa các lĩnh vực rất lớn, nghĩa là : Sự phát triển của lĩnh vực này thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của lĩnh vực khác và chúng được kết hợp với nhau tạo ra những sản phẩm kỹ thuật - công nghệ có tính năng vượt trội (Cơ - điện tử, vật liệu mới - công nghệ thông tin, v.v.).
Nếu như, trước những năm 50 của thế kỷ 20, một quốc gia nào đó có trình độ phát triển là A1 và một quốc gia khác có trình độ phát triển là B1 (B1 lớn hơn A1), chênh lệch phát triển của hai quốc gia là P1. Nếu A1 muốn đạt được mức phát triển là B1 cần một thời gian T1. Nhưng từ nửa sau của thế kỷ này, một quốc gia có trình độ phát triển A2 muốn đuổi kịp quốc gia có trình độ phát triển B2 để rút ngắn khoảng cách phát triển P2 (P2>P1), chỉ cần thời gian T2. T2 ngắn hơn nhiều T1.
Như vậy, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ tạo ra điều kiện cho các nước đi sau rút ngắn được khoảng cách phát triển hoặc nói một cách khác là làm phẳng khoảng cách phát triển trong một thời gian ngắn hơn nhiều so với bất kỳ thời gian nào trước đó. Vấn đề là nước đi sau có tận dụng được cơ hội đó hay không.
Xu hướng toàn cầu hóa: Trước hết, cần khẳng định rằng sự phát triển khoa học công nghệ là động lực của xu thế toàn cầu hóa, nó là nội năng của tiến trình này. Toàn cầu hóa thúc đẩy dịch chuyển cơ cấu kinh tế từ nước này sang nước khác và mở rộng thương mại giữa các nước, và do đó, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Quốc gia đi sau nếu biết phát huy lợi thế so sánh để tận dụng tốt cơ hội này sẽ rút ngắn được khoảng cách phát triển.
Xu thế hòa bình và hợp tác trong nền chính trị thế giới: Yếu tố này là "bà đỡ" cho tiến trình toàn cầu hóa. Không thể có Tổ chức Thương mại thế giới bao gồm 150 thành viên như hiện nay và còn gần 30 nước đang xin gia nhập, nếu còn sự đối đầu như thời kỳ chiến tranh lạnh.
Mặt trái của tấm huy chương
Ở trên ta chỉ đề cập đến mặt thuận của tiến trình làm phẳng thế giới. Tấm huy chương nào cũng có mặt trái. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ tạo điều kiện cho nước đi sau có thể rút ngắn khoảng cách phát triển so với nước đi trước trong một thời gian ngắn thì chính nó cũng tạo ra nguy cơ làm cho một nước tụt hậu xa hơn cũng chỉ trong một thời gian ngắn không kém. Nhìn vào đồ thị trên ta thấy nếu như nước có trình độ phát triển A2 không tận dụng được cơ hội thì chẳng những không đuổi kịp nước phát triển B2 mà có thể trong một thời gian ngắn T3 nước có trình độ B2 đã vượt lên mức B3 làm cho khoảng cách giữa nước này với nước có trình độ phát triển A2 ở một khoảng cách rất xa.
Xu thế toàn cầu hóa cũng làm gia tăng khoảng cách phát triển giữa các nước nếu không tận dụng được cơ hội để vượt qua thách thức mà tiến trình này tạo ra.
Như vậy, cùng với khả năng làm phẳng thế giới, sự phát triển của khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu hóa cũng tạo ra nguy cơ làm thế giới trở nên lồi lõm hơn.
Trên thực tế, thế giới vẫn đang diễn ra cả hai quá trình này. Sự lồi lõm trong thế giới phẳng có nội hàm đa diện và thể hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị và sự tham gia của người dân vào công việc của đất nước v.v.
Dưới đây xin dẫn ra một số thí dụ về sự lồi lõm trong kinh tế thông qua các chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội tính theo đầu người (và do đó là thu nhập), giá trị thương mại, trình độ phát triển con người, năng lực cạnh tranh.
Theo IMF, 30 nền kinh tế phát triển chiếm 13,3% dân số thế giới đã chiếm 52% GDP toàn cầu. Trong khi đó, 143 nền kinh tế đang phát triển và chậm phát triển bao gồm 84,7% dân số thế giới chỉ chiếm 48%. 20% dân số thế giới sống ở những nước có thu nhập cao nhất đã chiếm 86% GDP toàn cầu, 20% dân số nghèo nhất chỉ chiếm 1%.
GDP bình quân đầu người của các nền kinh tế phát triển gấp 56 lần so với thu nhập bình quân đầu người của những nước có GDP thấp nhất.
Trong khi nhiều tỷ phú ở các nước có tài sản hàng tỷ USD thì 20% dân số thế giới sống với mức thu nhập dưới 1 USD/ngày. Mỗi con bò của Liên minh châu Âu được Chính phủ các nước này hỗ trợ 2,5 USD/ngày, con số này lớn hơn mức sống của 75% dân số châu Phi.
Toàn cầu hóa cũng làm phân hóa sâu sắc giá trị thương mại giữa các nước và các nhóm dân cư: 30 nền kinh tế phát triển chiếm 67,4% kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, các nền kinh tế còn lại chỉ chiếm 32,7%; 20% dân số sống ở các nước giàu nhất chiếm 82% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, 20% sống trong các nước nghèo nhất chỉ chiếm tỷ trọng 1%.
Năng lực cạnh tranh của các quốc gia cũng phân tán trên một phổ rất rộng. Ðiều đáng nói là khoảng cách này ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và xu thế toàn cầu hóa.
Sự lồi lõm không chỉ diễn ra giữa các nước mà còn diễn ra giữa các nhóm dân cư trong một nước.
Ở Trung Quốc khoảng cách giàu nghèo đang rộng dần ra giữa dân cư sống ở vùng ven biển và dân cư sống sâu trong lục địa. Hệ số GINI, theo đó bất bình đẳng thu nhập ở các nước Ðông Âu tăng với mức độ lớn nhất từ trước đến nay. Bất bình đẳng ở các nước OECD cũng tăng nhiều sau những năm 80 của thế kỷ trước, đặc biệt là Thụy Ðiển, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ.
(còn nữa)