Ở Nam Bộ, sau khi được tin phát-xít Nhật đầu hàng, Thường vụ Xứ ủy Tiền Phong triệu tập hội nghị, nhận định thời cơ khởi nghĩa đã tới, phải tận dụng lúc Ðồng minh chưa vào giải giới quân Nhật, trung lập hóa chúng và bằng mọi cách lấy được vũ khí, đạn dược của chúng. Thời điểm khởi nghĩa được dự tính vào ngày 17, trễ lắm là ngày 18-8-1945.
23 giờ đêm 14-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Ðồng minh không điều kiện.
Tiếp theo vụ Mussolini bị nghĩa quân Ý xử tử ngày 28-4-1945, Hitler tự sát ngày 30-4-1945, phát-xít Ðức, đêm 8 rạng 9-5 ký văn kiện đầu hàng không điều kiện, sự kiện phát-xít Nhật đầu hàng đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của trục phát-xít - Ðức - Ý - Nhật. Thời cơ vô cùng thuận lợi mở ra cho phong trào cách mạng các nước phát triển và các nước thuộc địa vùng lên giải phóng, giành độc lập.
Cán bộ đảng viên Ðảng Cộng sản Ðông Dương được Chỉ thị của T.Ư Ðảng ngày 12-3-1945 "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta", đã tổ chức lực lượng quần chúng, huấn luyện và tập dượt sẵn sàng hành động. Ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Ðảng ở Tân Trào (Tuyên Quang) có hai đại biểu của Nam Bộ dự, quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Ðồng minh vào Ðông Dương, đứng ở vị trí chủ nước nhà tiếp quân Ðồng minh. Ngày 16-8-1945, Quốc dân Ðại hội họp ở Tân Trào, "tán thành chủ trương phát động tổng khởi nghĩa của Ðảng Cộng sản Ðông Dương, thông qua lệnh khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh và 10 chính sách của Việt Minh, cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thư gửi đồng bào cả nước viết: "... Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!".
Ở Nam Bộ, sau khi được tin phát-xít Nhật đầu hàng, Thường vụ Xứ ủy Tiền Phong triệu tập hội nghị vào ngày 15-8-1945, nhận định tình hình, xác định nhiệm vụ cần kíp: Thời cơ khởi nghĩa đã tới. Phải tận dụng thời cơ lúc Ðồng minh chưa vào giải giới quân Nhật, trung lập hóa chúng và bằng mọi cách lấy được vũ khí, đạn dược từ trong tay chúng. Thường vụ Xứ ủy cũng lập ra ngay Ủy ban khởi nghĩa, dự tính sẽ khởi nghĩa vào ngày 17, trễ lắm là ngày 18-8-1945.
Khí thế tiền khởi nghĩa xuất hiện ở Nam Bộ từ sau 9-3-1945 và nhanh chóng dâng cao với phong trào Thanh niên Tiền Phong ra đời ngày 1-6-1945 do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, được Xứ ủy Tiền Phong đồng ý, tổ chức theo gợi ý của Ida, quyền Tổng trưởng Thanh niên Thể thao Ðông Dương. Thành lập Thanh niên Tiền Phong theo Xứ ủy là tương kế tựu kế, xây dựng đội quân chính trị cho Ðảng trong các tầng lớp thanh niên, lấy đó làm lực lượng nòng cốt cho khởi nghĩa giành chính quyền.
Phong trào Thanh niên Tiền Phong thu hút không chỉ thanh niên mà cả phụ nữ, phụ lão, thiếu nhi, công nhân viên chức. Các công, tư sở, xí nghiệp, nhà máy điện, nước, bốt cảnh sát, cơ lính thủ hộ... đều có cơ sở Thanh niên Tiền Phong. Sau ba tháng tổ chức và hoạt động, Thanh niên Tiền Phong huy động được 1,2 triệu đoàn viên trong 21 tỉnh Nam Bộ. Riêng Sài Gòn có 200.000 đoàn viên (dân số thành phố lúc đó là 800.000). Ðây là lực lượng chủ lực trong cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn, cũng là lực lượng đối chọi chủ yếu với các tổ chức quần chúng bị các đảng giáo phái thân Nhật lừa gạt lập ra, như Ðảng Ðộc lập của Hồ Văn Ngà, Quốc gia độc lập Ðảng của Ngô Ðình Ðầu, Ðảng phục quốc của Trần Văn Ân, Ðảng Huỳnh Long, Ðảng Dân xã Hòa Hảo, Phái Tiên thiên Ðại đạo của Lê Kim Tỵ, nhóm Trốt-kít Sao Xẹt có tham vọng liên kết các tổ chức này thành "Mặt trận Quốc gia chống Việt Minh".
Thực hiện ý định chuẩn bị khởi nghĩa, đêm 16 rạng 17-8-1945, Xứ ủy tổ chức Hội nghị mở rộng ở Chợ Ðệm, với đông đủ xứ ủy viên, một số đồng chí chủ chốt của các tỉnh trọng yếu, có đại diện Tỉnh ủy giải phóng tỉnh Gia Ðịnh, mời thêm ba đồng chí Cộng sản kỳ cựu là Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Nguyễn, Bùi Công Trừng. Trong cuộc họp bàn về khởi nghĩa, một số đồng chí e ngại: một là chưa có chỉ thị của Trung ương (đã cử người đi liên lạc nhưng chưa về), hai là Sài Gòn khởi nghĩa mà miền bắc, miền trung không khởi nghĩa sẽ đơn độc và thất bại như Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940.
Tranh luận sôi nổi, cuối cùng hội nghị kết luận:
- Chưa quyết định ngày khởi nghĩa nhưng sẽ sẵn sàng, nhanh chóng phát triển mặt trận Việt Minh, hoàn chỉnh sự chuẩn bị.
- Theo dõi từng giờ tình hình miền bắc. Hễ được tin Hà Nội khởi nghĩa thì Sài Gòn và Nam Bộ khởi nghĩa ngay.
- Việt Minh và Ðảng Cộng sản ra công khai hoạt động. Thanh niên Tiền Phong và Tân dân chủ đoàn chính thức tuyên bố là thành viên Mặt trận Việt Minh.
Thực hiện tinh thần đó, sáng 18-8-1945, Thanh niên Tiền Phong tổ chức mít-tinh có 50.000 đoàn viên dự, tuyên thệ tại vườn Ong Thượng:
- Chúng ta thề trung thành với Tổ quốc!
- Chúng ta thề trung thành với nhân dân!
- Chúng ta thề giữ gìn phẩm chất cao đẹp!
Sau khi bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đọc ba lời thề, ba lần hai tiếng "xin thề" được vang lên như sấm với những nắm tay vung lên mạnh mẽ.
Tối 18-8-1945, Mặt trận Việt Minh và Xứ ủy Cộng sản Nam Kỳ tổ chức mít-tinh tại rạp Nguyễn Văn Hảo để ra công khai, động viên quần chúng tham gia Mặt trận Việt Minh cứu nước.
Ngày 18-8-1945, lực lượng thân Nhật trước khí thế của quần chúng cũng biểu tình cả vạn người đồng ý hợp tác với Việt Minh dưới ba khẩu hiệu:
- Việt Nam hoàn toàn độc lập!
- Xây dựng chính thể Cộng hòa Dân chủ!
- Chính quyền về tay Việt Minh!
Cao Ðài thống nhất 12 phái, Tịnh độ cư sĩ, cánh tả trong Ðảng Quốc gia độc lập cũng ngả về Mặt trận Việt Minh. Liên đoàn công chức đổi tên là Liên đoàn công chức cứu quốc tuyên bố tham gia Mặt trận Việt Minh.
Sáng sớm 20-8-1945, Sài Gòn được tin Hà Nội khởi nghĩa thành công. Ngày 20-8-1945, cuộc mít-tinh kỷ niệm ngày Nguyễn An Ninh hy sinh tại Côn Ðảo được xem như một cuộc động viên ra quân của Thanh niên Tiền Phong và nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn.
Sáng 21-8-1945, xe hoa có trương cờ đỏ sao vàng chạy khắp thành phố Sài Gòn, kêu gọi đồng bào chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Cũng trong ngày, Hội nghị Chợ Ðệm lần 2 được triệu tập, tính rằng Hà Nội đã khởi nghĩa thắng lợi, các đại biểu ra về tổ chức khởi nghĩa trong đêm 22-8. Không ngờ bên chưa tán thành khởi nghĩa lại nêu lý do phải đề phòng khả năng Nhật can thiệp và quân Anh vào sẽ giúp Pháp đàn áp cách mạng. Hội nghị lại phải đi đến thỏa ước giao cho Ðảng bộ tỉnh Tân An làm khởi nghĩa thí điểm, rút kinh nghiệm cho Sài Gòn và các tỉnh. Ðại diện Tân An đề nghị đêm 22-8 khởi nghĩa ở thị xã rồi toàn tỉnh.
Sáng sớm 23-8, được tin Tân An khởi nghĩa thắng lợi, Hội nghị Chợ Ðệm lần thứ họp rất ngắn vì không có ý kiến khác nhau, thống nhất lấy đêm 24-8-1945 tiến hành khởi nghĩa. Theo kế hoạch, 18 giờ ngày 24-8-1945, Ủy ban khởi nghĩa Nam Kỳ phát lệnh khởi nghĩa. Từ chập tối đến 0 giờ ngày 25-8, lực lượng cách mạng hoàn thành việc chiếm các cơ quan trước hết là các cơ quan yết hầu, bằng lực lượng tại chỗ đã chuẩn bị sẵn kết hợp lực lượng bên ngoài. Ðến 22 giờ đêm 24-8-1945, tất cả bộ máy cai trị của chính quyền bù nhìn thành phố đã về tay các lực lượng xung kích Thanh niên Tiền Phong. Khâm sai Nguyễn Văn Sâm vừa mới tới nhậm chức đã bị bắt giữ.
Trong thời gian này, Thanh niên Tiền Phong, công nhân có vũ trang mang băng đỏ Việt Minh trên xe camion cắm cờ đỏ sao vàng chạy khắp thành phố, biểu dương khí thế khởi nghĩa. Các ngõ ra vào thành phố như Phú Lâm, cầu Nhị Thiên Ðường, cầu chữ Y, cầu Tân Thuận, cầu Thị Nghè, cầu Bông, cầu Kiệu, Bà Hom... đều được quân ta canh giữ nghiêm ngặt.
Từ nửa đêm 24-8-1945, hàng chục vạn quần chúng từ Bà Ðiểm, Hóc Môn, Bình Ðông, Bình Chánh, Chợ Ðệm... từ các tỉnh Tân Bình, Gia Ðịnh, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tân An, Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre... rầm rộ tiến vào trung tâm thành phố, vũ trang bằng súng đủ loại, tầm vông vạt nhọn, giáo mác, dưới rừng cờ đỏ sao vàng, đi đầu là cờ búa liềm của Ðảng Cộng sản và băng-rôn ủng hộ Việt Minh.
Rạng sáng 25-8-1945, cả TP Sài Gòn là biển người, là rừng cờ, băng-rôn, khẩu hiệu. Cuộc biểu tình hơn một triệu người đủ các lứa tuổi, nam nữ, tầng lớp, giai cấp, tôn giáo, nhân sĩ trí thức, người Việt, người Hoa, cả người Pháp đã rầm rộ diễu hành từ tổng hành dinh Ủy ban khởi nghĩa số 6 Colombert (nay là đường Thái Văn Lung) kéo qua đường Catinat (nay là đường Ðồng Khởi), đến bờ sông rẽ theo đường Belgique (nay là Bến Chương Dương) lên đại lộ Kitchener (nay là Nguyễn Thái Học) qua Galliéni (nay là Trần Hưng Ðạo), theo đường Bonard (nay là Lê Lợi) đến ngã tư Charner (nay là Nguyễn Huệ) tập họp ở dinh Ðốc Lý.
Biểu tình đi từng khối. Các khối quần chúng ăn mặc khác nhau, có giày dép hoặc đi chân không, có vũ trang hay tay không, đi xen nhau, đồng bào ở thành phố xen với đồng bào các tỉnh, đại diện cho nghiệp đoàn xen cùng tổ chức đảng phái, tôn giáo, nhưng rất trật tự, thống nhất nhau ở khí thế hào hùng, tinh thần yêu nước và lòng tự hào của người dân mới giành được độc lập.
Công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ, đoàn người Thượng, Tịnh độ cư sĩ, đoàn xích lô, chị em buôn bán ở chợ Bến Thành, đoàn công chức tòa án, bưu điện, giao thông công chánh, lao động hỏa xa, liên đoàn kim khí, nghiệp đoàn xưởng máy nhà in, đoàn thợ mộc, thợ hồ, nghiệp đoàn hớt tóc, xe thổ mộ, đồng bào các tỉnh về dự... đều rầm rập chân bước, miệng hát vang các bài hát cách mạng, hô các khẩu hiệu liên tục đến khản cả cổ "Việt Nam độc lập muôn năm", "Việt Minh muôn năm", "Ðảng Cộng sản Ðông Dương muôn năm", "Tự do, cơm áo, hòa bình", "Ruộng đất cho dân cày", v.v. Lúc 11 giờ, trời đổ mưa ào ạt nhưng không ai bỏ ngũ. Sau đó nắng như thiêu trở lại, khô nứt cả môi nhưng không ai chạy tìm nước uống. Ðặc biệt, nhiều học sinh trường mù mang kèn trống theo đánh nhịp cho quần chúng diễu hành.
Ðến 11 giờ 30 phút trưa 25-8-1945, đoàn biểu tình đã tập họp trước dinh Ðộc Lập (nay là trụ sở HÐND và UBND thành phố) và tràn ngập các đường từ trung tâm thành phố đến cảng Sài Gòn, chợ Bến Thành, nhà thờ Ðức Bà, đến Dinh Toàn quyền, Sở thú.
Từ ban-công dinh Ðốc Lý, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch thay mặt Kỳ bộ Việt Minh thông báo cho đồng bào biết chính quyền đã về tay nhân dân, và đọc ba lần danh sách Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ gồm chín người, do kỳ bộ Việt Minh cử ra (Danh sách đó đã được kẻ lên bảng vàng danh dự của kỳ đài ở ngã tư Charner - Bonard (nay là Nguyễn Huệ - Lê Lợi).
Danh sách gồm có: Trần Văn Giàu: Chủ tịch; Nguyễn Văn Tạo: Ủy trưởng Nội vụ; Nguyễn Phi Hoanh: Ủy trưởng Tài chính; Phạm Ngọc Thạch: Ủy trưởng Ngoại giao; Hoàng Ðôn Văn: Ủy trưởng Lao động; Dương Bạch Mai: Ủy trưởng Quốc gia tự vệ cuộc; Nguyễn Thanh Sơn: Thanh tra chính trị; Ngô Tấn Nhơn: Ủy trưởng Kinh tế; Huỳnh Văn Tiểng: Ủy trưởng Tuyên huấn và Thanh niên.
Sau mỗi lần đọc, quần chúng hò reo, vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.
Khi đọc xong danh sách, Chủ tịch Ủy ban Hành chính lâm thời Trần Văn Giàu phát biểu, đại ý nói:
"... Chúng tôi Ủy ban lâm thời Hành chính nhân dân tuyên bố chế độ cộng hòa dân chủ thành lập tại Nam Bộ Việt Nam, chúng tôi tuyên bố không thừa nhận chính phủ Nam Triều và cương quyết chống lại chế độ thực dân bất cứ từ đâu đến. Không một ngoại bang nào có thể viện một lý do gì mà bác bỏ điều quyết định long trọng mà đồng bào ta hoài bão lâu nay: Nước Việt Nam hoàn toàn độc lập...".
Tiếp theo, đại diện Xứ ủy Nam Kỳ Nguyễn Văn Nguyễn kêu gọi: "Hết thảy anh em thợ thuyền, nông dân, thanh niên, binh lính và các giới đồng bào nỗ lực làm việc, kiến thiết nền dân chủ quốc gia, đem toàn lực ủng hộ Ủy ban hành chính lâm thời thực hiện một nước Việt Nam độc lập, dân chủ và làm cho người Việt Nam tự do, sung sướng...".
Các bài phát biểu được hoan nghênh nhiệt liệt trong tiếng hô khẩu hiệu vang dội: Việt Nam độc lập muôn năm, Mặt trận Việt Minh muôn năm.
Cuộc mít-tinh kết thúc. Cả Sài Gòn vẫn tiếp tục rộn ràng nhịp chân bước, miệng hát vang, dù khản cổ vẫn hô to khẩu hiệu kéo dài đến tối.
Cũng với khí thế dũng mãnh đó, nhân dân các tỉnh dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản và Mặt trận Việt Minh, đã khởi nghĩa giành chính quyền. Ðến 28-8-1945, chính quyền đã về tay Việt Minh ở 21 tỉnh Nam Bộ.
TÔ BỬU GIÁM