Cho đến năm Ất Dậu ấy, cả nước có bao nhiêu huyện? Khó nhớ lắm mà chỉ biết rằng mỗi huyện gồm hàng chục tổng, hàng trăm xã tức làng, mỗi huyện như thế mới có một Trường Kiêm Bị, tức trường tiểu học, có năm lớp, chừng vài trăm học trò, con nhà khá giả. Một huyện hàng chục vạn dân mới có được vài trăm người đi học tiểu học, vậy thì nói gì đến trung học hay đại học hoặc cao hơn nữa.
Trường Kiêm Bị dạy từ lớp một, tức Ðồng Ấu, lúc đó gọi là lớp năm. Tiếp đến là lớp tư, tức lớp dự bị. Lên lớp ba là lớp sơ đẳng, đến lớp này có cuộc thi gọi là sơ học yếu lược, học trò lớp này có anh đã có vợ con, có anh cao bằng sào, bằng gậy. Có anh chỉ cần cái bằng này là về làng ăn khao rồi đi mua chức phó lý, lý trưởng... thế là đã danh giá, có văn chức sơ sơ, chưa được ăn đầu gà, thủ lợn nhưng cũng đủ vênh vang, không để chú lính lệ, bác trương tuần bắt nạt trong những cuộc đi đào mương, đắp đê.
Ai học cao đi nữa thì sau khi đỗ bằng sơ học yếu lược, được lên lớp nhì tức lớp trung đẳng. Mà lớp nhì lại chia làm hai, phải học hai năm, lớp nhì năm thứ nhất và lớp nhì năm thứ hai. Học xong lớp nhì năm thứ hai mới được lên lớp nhất, tức lớp cao đẳng, lớp oai nhất, cao nhất trường, cũng là cao nhất hàng huyện. Ðến đây, từ huyện phải xuống tỉnh lỵ để đi thi. Ðó là cuộc thi lấy bằng tiểu học, nhiều người quen gọi là bằng xéc-ti-phi-ca, có thể đi dạy học tư, đi làm thư ký được rồi. Trượt thì về quê đi cày, đi buôn. Ðỗ thì đi xin việc. Có ai từ làng quê, từ huyện lỵ lên thành phố lớn, lên Hà Nội để đi học tiếp không? Có, nhưng ít lắm, ít đến không đáng kể.
Với một nền giáo dục như thế, không lạ gì, đã có bao nhiêu người làm văn tự mua bán một thứ nào đó như bán con trẻ, bán con trâu, bán thửa ruộng, bán ngôi nhà, khu đất... phải nhờ người khác viết hộ (người viết hộ hay viết thuê gọi là Tá Tả) họ viết gì, đọc gì làm sao biết được, chỉ điểm chỉ ngón tay hoặc gạch chéo một chữ thập vào cuối tờ đơn, nên không ít người vì thế mà bị lừa, mà trắng tay, mà tù tội...
Hà Nội là thành phố lớn nhất Bắc Kỳ, lớn nhì Ðông Dương, có một trường đại học và dăm ba trường trung học thật đấy, nhưng là dành riêng cho con ông cháu cha, con quan lại, con nhà tư sản lớn. Sinh viên Việt Nam ra trường mỗi năm vài ba người.
Năm Ất Dậu ấy đến, cả nước chìm trong trận hồng thủy kinh hồn, còn lớn hơn những trận lụt 18 năm liền vùng Khoái Châu, Hưng Yên... Chính lúc này, ai biết được rằng đang có những con sóng ngầm sẽ làm nên kỳ tích Việt Nam độc lập. Và cũng hình như trận lụt này góp phần vào cái đói thê thảm gọi là trận đói năm Ất Dậu, cướp đi hơn hai triệu đồng bào ta. Nguyên nhân chính vẫn là Nhật - Pháp tích trữ lương thực, dùng thóc đốt lò thay than, nhổ lúa trồng đay... khiến mọi ngả đường, đâu cũng có xác chết.
Và sấm chớp rền vang, và lửa đã bùng lên. Và cách mạng đã nổ ra, cờ đỏ sao vàng tung bay. Nạn đói chấm dứt. Các hũ gạo cứu đói, hũ gạo tiết kiệm ra đời.
Sau khi cả nước cách mạng thành công, việc
đầu tiên mà Bác Hồ đề ra là chống giặc Ðói và giặc Dốt.
Ngân khố chỉ còn vài nghìn đồng bạc. Toàn dân chưa lại sức sau trận đói. Mà số dân mù chữ lên tới 95%, nghĩa là cứ trăm người thì chỉ có năm người biết chữ...
Phong trào bình dân học vụ được thổi bùng lên như ánh lửa, như luồng gió hồi sinh dân tộc.
Các phiên chợ quê, đâu đâu người ta cũng dựng hai cái cổng, một cái thật to như cổng chào và một cái thấp tè chỉ con bò chui lọt. Ai biết chữ thì thênh thang đi cổng lớn. Ai không biết chữ, bị gọi là "mù chữ" thì phải lom khom mà chui qua cổng bé, nếu có quang gánh thì không thể gánh trên vai được, cứ kéo lê nó mà bò...
Ðồng thời bên cạnh cổng, có mấy cái mẹt treo la liệt, mẹt nào cũng viết chữ i, chữ t, nhưng là viết thường bằng vôi, người chui qua phải học thuộc mấy câu ca dao:
O tròn như quả trứng gà
Ô là đội mũ, ơ là thêm râu...
Thực ra, bình tĩnh lại, cách làm ấy thật sơ khai.
Một phong trào xóa nạn mù chữ mở ra rộng khắp. Ðêm đêm các lớp học trong đình, chùa, trong nhà dân, trong xóm vắng, với đèn dầu lạc, đèn hoa kỳ, với bút vót bằng tre, với que vẽ lên nền sân... tiếng học i tờ vang lên rộn rã và chỉ trong một hai năm, hàng triệu người đã biết đọc biết viết.
Thấm thoắt đã tròn 60 năm. Từ chỗ chỉ có 5% số dân biết chữ, đến chỗ đã có 95% số dân biết chữ, là một kỳ tích của nước Việt Nam độc lập trong một hoa giáp, trong một hội can chi. Cho đến năm 2004, theo thống kê sơ bộ, cả nước ta có hơn 20 triệu người đi học, nhỏ nhất là mẫu giáo lớp mầm non, lớp lá, cao nhất là thạc sĩ, tiến sĩ... so với số dân 80 triệu thì cứ 4 người dân đang có một người cắp sách đến trường. Lạ lùng đến thế là cùng, nếu nhớ lại thời Ất Dậu cũ ấy.
Cùng với cái ăn cái mặc thì chuyện học hành là việc vô cùng thiết yếu của đời sống mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc. Chúng ta đang có một nền giáo dục toàn dân, ai nói gì thì nói, nền giáo dục ấy đã góp phần không nhỏ cho Việt Nam đi lên cùng thế giới. Khuyết điểm, nhược điểm đó cũng là tất nhiên. Chúng ta còn có hội khuyến học, hội có chân rết đến tỉnh, huyện và rất nhiều nơi đến xã, đến thôn và còn truyền đến từng dòng họ. Có quỹ khuyến học, có nhà khuyến học, có học bổng khuyến học, mà quan trọng nhất là nhiều bậc ông, bà, cha mẹ tự lấy mình làm gương khuyên răn con cháu phải siêng năng đi học để tự mình cất cánh, thoát khỏi cơ cực bần hàn. Có học mới không bị chui qua lỗ bò chui. Có học mới làm được bao việc ích nước, lợi nhà...
Nếu mỗi người là một cái cây thì mưa xuân, nắng ấm tưới cho cây tươi tốt, việc học chính là sự tưới nhuần thấm đẫm như thế. Làm cây phải lớn lên, đơm hoa kết trái. Làm người phải có học để đóng góp cho đời...
Nhìn lại một hoa giáp 60 năm, ta càng thấy những cố gắng của mỗi người, của toàn dân là không uổng phí. Từ xương máu, mồ hôi đến cân não đổ ra, đã đơm hoa kết trái. Ôn cố mà tri tân, thật mừng khi lại mở đầu một hoa giáp mới, mà Ất Dậu mang đến cùng ta...
BĂNG SƠN