Nếu đi từ Hà Nội lên Lạng Sơn theo quốc lộ 1A khoảng 100 km ta sẽ đến cầu Sông Hóa đó là nơi bắt đầu khu di tích. Ở đây có Thành Cai Kinh, Cầu Quan Âm, núi Tay Ngai là những di tích chống thực dân Pháp của cuộc khởi nghĩa do Hoàng Ðình Kinh, một thủ lĩnh người dân tộc Tày, sinh ra và lớn lên ở huyện Hữu Lũng (Lạng Sơn), đã lãnh đạo nhân dân đứng lên chống thực dân Pháp, trong những ngày đầu đặt chân lên Lạng Sơn. Tiếp theo, ngược lên phía bắc là khu Ðồng Bành, hậu cứ của tất cả các trận trong lòng ải Chi Lăng. Trong lịch sử có các địa danh như: Núi Bàn Cờ, Ngõ Thề, Thành Kho, Ðền Quan Nàng, đầm lầy Mã Yên, Cửa Quỷ, Núi Quỷ, Quán Thanh, núi Mã Yên...
Ngược dòng lịch sử, Chi Lăng luôn gắn liền với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với những chiến công rực rỡ của dân tộc. Từ khi nước Văn Lang ra đời và đặc biệt khi Ðại Việt trở thành quốc gia độc lập, tự chủ, tự cường, Lạng Sơn trở thành địa đầu Tổ quốc. Ðịa thế hiểm yếu nơi đây đã được người xưa ghi lại: "Hàng nghìn ngọn núi la liệt, hàng nghìn khe suối quanh vòng, khí núi độc, đường đất hiểm trở, đi lại khó khăn...".
Vào thế kỷ thứ 14, Phạm Sư Mạnh đi sứ sang Trung Quốc, khi qua Lạng Sơn ông đã viết bài "Chi Lăng động", trong đó có câu: "Chi Lăng quan hiểm dữ thiên tề" (Chi Lăng ải hiểm sánh ngang trời). Ngày nay, có ai lên Lạng Sơn, khi qua ải Chi Lăng, đứng nhìn về phương nam có một khoảng thung lũng bị thắt lại do một bên là núi đá trườn ra, lại có một trái núi mọc giữa, suối chảy sát chân núi. Lợi dụng địa hình này nơi đây, ông cha ta ngày trước đã đắp một đoạn thành đất ngang qua để chặn bước tiến của quân thù. Từ đó mà có tên gọi là ải Chi Lăng. Còn quân giặc gọi đây là Cửa Quỷ. Không chỉ có tên gọi là Cửa Quỷ, mà bất cứ ai qua đây nhìn vào vách đá của dãy núi Cai Kinh, nhìn về phía nam cửa ải có một hình thù tự nhiên trông giống như một con hổ khổng lồ đang từ trên lao xuống, hoặc trông giống như mặt quỷ hung tợn. Tại lòng ải này, mỗi khi có quân giặc đi qua đều bị quân ta mai phục từ trên núi bắn tên nỏ, bẫy đá lăn xuống như mưa, tiến cũng khó, rút cũng khốn, thiệt hại rất nhiều... Do vị trí địa hình đặc biệt, cửa ngõ phên dậu của đất nước, nơi có con đường huyết mạch từ biên giới phía bắc vào nước ta, nên trong suốt các cuộc chống quân phong kiến phương bắc, qua các triều đại từ Ðinh, Lý, Trần, Lê... thời nào ải Chi Lăng cũng lập nên những chiến công vang dội. Một trong những chiến thắng vang dội nhất là chiến thắng Chi Lăng năm 1427: "Ngày mười", tháng tám trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế/Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu" (Bình Ngô đại cáo, của Nguyễn Trãi).
Với chiều dày lịch sử, Chi Lăng trở thành một khu di tích rộng lớn, một di sản văn hóa vô giá về sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Khu di tích này bao gồm 52 điểm, trải dài theo thung lũng, dọc con sông Thương, nằm trên địa bàn hai xã Chi Lăng và Quang Lang. Những di tích này không còn nguyên vẹn, nhưng đã được đầu tư, xây dựng các bia chiến thắng, khu tượng đài chiến thắng Chi Lăng.
Ngoài giá trị về lịch sử, Chi Lăng còn có những di tích ghi đậm dấu ấn của nền văn hóa Bắc Sơn, Mai Pha, như: hang Nà Nông, Lạng Lắc, Lai Ta, Bằng Mạc... Còn đó những mảnh tước, rìu đá, mảnh gốm... minh chứng cho những giai đoạn sơ sử, tiền sử của người Việt cổ xưa có giá trị về nghiên cứu khoa học. Trên mảnh đất này còn có nhiều danh lam thắng cảnh như: Hang Gió, núi Bàn Cờ... Ðể bảo tồn và phục vụ công tác giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau, từ năm 1962, khu di tích Chi Lăng đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích quốc gia.
HÙNG TRÁNG