Phát triển công nghiệp khu vực đồng bằng sông Cửu Long

Với tổng diện tích khoảng 4,06 triệu ha, dân số của vùng là 17,4 triệu người, chiếm 20,69% tổng dân số, đứng thứ hai cả nước sau vùng đồng bằng sông Hồng (số liệu thống kê năm 2006). Cho đến nay, vùng đồng bằng sông Cửu Long vẫn được biết đến là vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất cả nước với giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2006 đạt 47.837,4 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 33,68% giá trị sản xuất nông nghiệp toàn quốc, đóng góp 80%  lượng gạo xuất khẩu và 60% thủy sản xuất khẩu của cả nước. Cho nên phát triển công nghiệp ở khu vực phải tính toán kỹ lưỡng đến vấn đề bảo đảm an ninh lương thực cho cả nước. 

Với đặc điểm thuần nông, cho nên công nghiệp của vùng trong tình trạng chậm phát triển, quy mô nhỏ bé, thiết bị, công nghệ lạc hậu, theo số liệu thống kê năm 2006, giá trị sản xuất công nghiệp của cả vùng mới chỉ đạt 44.463,1 tỷ đồng, chiếm 9,12% giá trị sản xuất công nghiệp  của cả nước, đóng góp ngân sách hằng năm từ lĩnh vực sản xuất công nghiệp còn thấp. Lao động làm việc trong ngành công nghiệp hầu hết là thợ thủ công, chưa qua đào tạo chính quy; các ngành sản xuất còn đơn điệu, giá trị gia tăng của sản phẩm thấp...

Theo chúng tôi, có bốn nhân tố chủ yếu dẫn đến sự hạn chế  phát triển công nghiệp vùng là: Thứ nhất, địa hình vùng đồng bằng sông Cửu Long bị chia cắt bởi nhiều sông rạch, về mùa nước nổi có một diện tích lớn của vùng thường xuyên ngập nước, địa chất công trình với nền đất yếu nên không thuận lợi cho xây dựng nhà máy công nghiệp, chi phí đầu tư xây dựng nhà  máy cao hơn so với các vùng khác.

Thứ hai, sự hạn chế, yếu kém về cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Ðiều này thể hiện ở chỗ cả vùng không có hệ thống đường sá trong khi hệ thống giao thông liên vùng và trong từng địa phương kém  phát triển, không thuận lợi cho di chuyển bằng đường bộ. Hệ thống truyền tải, cung cấp điện, nước có công suất lớn đáp ứng cho các nhà máy sản xuất công  nghiệp còn hạn chế, chưa tạo được sự tin tưởng đối với nhà đầu tư... 

Thứ ba, toàn vùng không có nguồn tài nguyên thiên nhiên đáng kể để làm đòn bẩy phát triển các ngành công nghiệp khai thác, thúc đẩy các ngành công nghiệp khác phát triển theo. Dân số vùng tuy đông, đứng thứ hai so với các vùng khác trong cả nước nhưng chất lượng nguồn nhân lực không cao.

Thứ tư, xuất phát điểm của vùng ở vị trí thấp, cơ cấu kinh tế lạc hậu, sức mua của toàn vùng còn thấp so với quy mô dân số do thu  nhập chủ yếu của người dân sống trong vùng là từ sản xuất nông nghiệp, mức sống của phần đông người dân trong vùng ở mức trung bình, đời sống còn khó khăn.

Vùng đồng bằng sông Cửu Long sở hữu rất ít các yếu tố thuận  lợi cho công  nghiệp phát triển, vì thế hiện trạng công nghiệp vùng đang trong tình trạng chậm phát triển là điều dễ hiểu. Qua hơn 20 năm đất nước thực hiện chính sách mở cửa, phát triển kinh tế với sự tham gia của nhiều thành phần, lượng vốn thu hút đầu tư vào vùng còn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của vùng, cụ thể trong giai đoạn 1988 -2006, lượng vốn FDI thu hút của cả vùng mới chỉ đạt 2,315 tỷ USD, chiếm 2,96% tổng vốn đầu tư thu hút của cả nước (78,25 tỷ USD), bằng 11,44% so vùng đồng bằng sông Hồng (20,24 tỷ USD) và bằng 5,47% lượng vốn đầu tư thu hút của vùng Ðông Nam Bộ (42,34 tỷ USD).

Ðặc điểm chi phối lớn nhất đến xác định chiến lược phát triển công nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long đó là, đây là vùng đất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, bảo đảm an ninh lương thực cho cả nước, vì thế mọi chủ trương phát triển công nghiệp phải được xem xét kỹ lưỡng, có bước đi thích hợp và phải bảo đảm hiệu quả trong quá trình chuyển đổi quỹ đất sang sản xuất công nghiệp.

Trước hết, chúng tôi đề xuất không nên đặt mục tiêu phát triển công nghiệp toàn diện đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long mà các địa phương trong vùng nên xác định mục tiêu là trở thành tỉnh có công nghiệp phát triển dựa trên một số ngành có lợi thế so sánh động.

Không nhất thiết phải tỉnh nào trong vùng cũng phát triển công nghiệp mà phải dựa vào lợi thế cụ thể của từng địa phương để xác định chiến lược một cách thích hợp, mang lại hiệu quả cao. Thí dụ, đối với tỉnh Cà Mau có lợi thế về khí đốt sẽ là nơi tập trung phát triển ngành công nghiệp khí - điện - đạm, đối với Cần Thơ tập trung phát triển mạnh lĩnh vực dịch vụ, thương mại, tài chính và ngành công nghiệp chủ lực cho vùng.

Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần. Tuy nhiên đối với từng vùng cụ thể thì các  thành phần kinh tế lại có vai trò và mức độ ảnh hưởng rất khác nhau đến  phát triển công nghiệp của vùng đó. Với vùng đồng bằng sông Cửu Long, việc xác định nguồn vốn đóng vai trò là động lực chính để thúc đẩy công nghiệp vùng phát triển cho đến nay vẫn chưa được khẳng định một cách rõ ràng.

Theo chúng tôi, cần khẳng định, khu vực kinh tế trong nước, gồm doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân là động lực chính  thúc đẩy công nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long phát triển. Trong đó, doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo.

Thực tế thời gian qua, nguồn vốn trong nước đã đóng vai trò chủ đạo trong quá trình công nghiệp hóa vùng, thể hiện qua việc một số tập đoàn  mạnh của Nhà nước đã triển khai đầu tư các dự án lớn, có ý nghĩa tích cực tới thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp vùng như Trung tâm nhiệt điện Cà Mau, Nhà máy đạm Cà Mau và hệ thống giao thông liên vùng.

Với quan điểm như vậy, dòng vốn FDI và các dòng vốn khác sẽ đóng vai trò là nguồn vốn bổ sung trong quá trình công nghiệp hóa vùng, không nên lấy việc thu hút nhiều dự án FDI làm thành tích đối với các tỉnh trong vùng. Các dự án FDI thu hút phải đầu tư trong các ngành mà tiềm lực trong nước còn hạn chế về công nghệ, thị trường, nên ưu tiên vốn FDI vào các ngành thiên về xuất khẩu, cơ khí chế tạo có công nghệ cao.

Tuy nhiên, việc phụ thuộc vào nguồn vốn trong nước cũng có nhược điểm. Ðó là tốc độ công nghiệp hóa vùng không được thúc đẩy  nhanh chóng không có bước đột phá mạnh, do tiềm lực của các doanh nghiệp trong nước còn nhỏ bé, trình độ quản lý và trình độ công nghệ chỉ ở mức trung bình, sản phẩm sản xuất chưa đa dạng, tính cạnh tranh còn yếu. Nhược điểm này sẽ sớm được khắc phục do sau hơn 20 năm mở cửa, cùng với sự đi lên của đất nước, các doanh nghiệp trong nước đã không ngừng lớn  mạnh, có vai trò ngày càng quan trọng đối với phát triển kinh tế của đất nước, khoảng cách giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI ngày càng được thu  hẹp.

Trong vòng từ 10 - 15 năm nữa, nhu cầu về mặt bằng để đáp ứng cho các doanh nghiệp trong nước, gồm cả doanh  nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân triển khai xây dựng nhà máy, mở rộng quy mô sản xuất sẽ rất lớn. Với đặc điểm không thể mở rộng sản xuất công nghiệp một cách liên tục như các vùng khác, mọi sự chuyển đổi đất cho sản xuất công nghiệp phải được xem xét cẩn trọng thì việc xác định đồng bằng sông Cửu Long là căn cứ cho các doanh nghiệp trong nước tăng năng lực sản xuất bằng cách xây dựng nhà máy mới tại đây là chiến lược có tính lâu dài, vừa đáp ứng được mục tiêu chiếm lĩnh thị trường trong nước, đồng thời phục vụ tốt mục tiêu xuất khẩu sản phẩm, chiếm lĩnh thị trường các quốc gia lân cận.

Có thể bạn quan tâm