Phát triển các làng nghề ở Hà Nội

Hộ gia đình anh Nguyễn Văn Lư xóm Chiến
Thắng, Vạn Phúc (Hà Đông, Hà Nội) đầu tư
6 khung cửu dệt vải lụa, đạt chất lượng
Hộ gia đình anh Nguyễn Văn Lư xóm Chiến Thắng, Vạn Phúc (Hà Đông, Hà Nội) đầu tư 6 khung cửu dệt vải lụa, đạt chất lượng

Vai trò quan trọng của làng nghề

Trên địa bàn Hà Tây (cũ) có 1.180 làng nghề với hơn ba nghìn doanh nghiệp và 160 nghìn hộ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Các làng nghề chiếm tới 80% giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp tại địa phương, sản phẩm làm ra mỗi năm hơn bốn nghìn tỷ đồng. Tại nhiều xã, sản xuất làng nghề chiếm tỷ trọng chính với 90% số lao động tham gia, như làng dệt lụa Vạn Phúc (Hà Ðông), mây tre đan Phú Vinh (Chương Mỹ), kim khí Phùng Xá (Thạch Thất), đồ gỗ Vạn Ðiểm (Thường Tín), tre guột Lưu Thượng (Phú Xuyên), tạc tượng Sơn Ðồng (Hoài Ðức), thú nhồi bông Tam Hiệp (Phúc Thọ)... Bên cạnh những nghề truyền thống có từ vài trăm năm là những nghề mới xuất hiện như khâu bóng, may công nghiệp, thú nhồi bông, làm hương... Các làng nghề được khôi phục, từng bước phát triển, mở rộng quy mô từ hơn chục năm nay. Tại làng sản xuất đồ gỗ Vạn Ðiểm, khoảng chục năm nay, từ các hộ sản xuất nhỏ lẻ đã phát triển thành điểm sản xuất công nghiệp với gần 50 doanh nghiệp, không chỉ sử dụng nguyên liệu, khai thác thị trường trong nước mà còn nhập khẩu gỗ từ Lào, Ấn Ðộ, châu Phi, để chế tác, xuất khẩu ra nước ngoài. Ðã có gần chục ngân hàng thương mại mở chi nhánh giao dịch ở Vạn Ðiểm. Hiện nay, các mặt hàng mây tre đan, khảm trai, sơn  mài, dệt lụa, thú nhồi bông, may mặc do các làng nghề tại Hà Tây (cũ) sản xuất có mặt tại nhiều thị trường trên thế giới như EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Ô-xtrây-li-a... Trên địa bàn, đã hình thành những doanh nghiệp lớn, doanh thu hàng trăm tỷ đồng mỗi năm đặt tại các khu, cụm công nghiệp chuyên cung ứng nguyên liệu, thu mua sản phẩm, tìm đối tác xuất khẩu cho làng nghề.

Mục tiêu mà Ðảng bộ tỉnh Hà Tây (cũ) đặt ra là đến năm 2010 toàn tỉnh có 400 làng được cấp bằng công nhận làng nghề và 90% số làng có nghề, các làng nghề sẽ đóng vai trò quan trọng trong quá trình CNH, HÐH nông nghiệp, nông thôn. Tới đây, một diện tích lớn đất sản xuất nông nghiệp ở Hà Nội sẽ được thu hồi phục vụ nhu cầu xây dựng đô thị, giao thông nên kinh tế làng nghề đang được các huyện như Quốc Oai, Thạch Thất, Phúc Thọ, Hoài Ðức, Chương Mỹ... đặc biệt quan tâm, xác định là nơi tạo ra hàng trăm nghìn chỗ làm mới cho nông dân.

Vốn, mặt bằng, đầu ra đều vướng

Theo Sở Công thương Hà Nội, các làng nghề đang ngày một mở rộng quy mô nhưng sức cạnh tranh còn thấp, việc kinh doanh không ổn định vì phụ thuộc quá nhiều vào thị trường nước ngoài. Thu nhập của một lao động tại làng nghề phổ biến ở mức từ 25 nghìn đến 30 nghìn đồng/ngày nên chưa thu hút lao động. Mặc dù rất năng động nhưng gần đây, kinh tế làng nghề đang có dấu hiệu chững lại do gặp khó khăn về vốn, đầu ra cho sản phẩm và mặt bằng sản xuất.

Làng nghề mây tre đan Phú Vinh (Chương Mỹ), với khoảng tám nghìn lao động làm nghề, gần 50 doanh nghiệp đang trong tình trạng sản xuất cầm chừng, nhiều doanh nghiệp, cơ sở nhỏ đã tạm ngừng hoạt động. Giám đốc Công ty TNHH Thu Trang Trần Văn Cửu, cho biết: "Bằng giờ năm ngoái, xe tải chạy vào làng lấy hàng nhộn nhịp cả ngày, các xưởng hoạt động hết công suất để kịp đơn hàng. Nhưng từ đầu năm đến nay, làng nghề im ắng. Phần lớn doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đều thiếu vốn, không dám ký hợp đồng với đối tác. Các ngân hàng đang thắt chặt tín dụng nên khu vực làng nghề khó tiếp cận nguồn vốn. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng không dám vay vốn vì lãi suất cao, đầu tư không có lãi thậm chí thua lỗ". Công ty TNHH Thu Trang là một doanh nghiệp lớn ở Phú Vinh, sử dụng gần 400 lao động, trước đây doanh thu khoảng 4,5 tỷ đồng/năm nhưng năm nay chỉ được khoảng 400 triệu đồng. Những công ty lớn hoạt động trong cụm công nghiệp Phú Nghĩa vốn có doanh thu mỗi năm từ 40 đến 45 tỷ đồng thì năm nay cũng chỉ vào khoảng 4,5 tỷ đồng. Giám đốc Công ty TNHH Xuân Trường, làng nghề đồ gỗ Vạn Ðiểm (Thường Tín) Nguyễn Xuân Trường, cho biết: "Năm nay, các làng nghề sản xuất đồ gỗ đều gặp khó khăn do giá gỗ tăng đến vài triệu đồng/m3 trong khi sản phẩm bán ra chậm do nhiều gia đình hạn chế mua sắm. Mặt hàng gỗ xây dựng do làng nghề nhập về đang ế ẩm, chất thành từng đống". Theo Phó Trưởng phòng Công thương huyện Thanh Oai Nguyễn Thị Hòa, đây cũng là khó khăn chung của các làng nghề ở Thanh Oai, sản xuất tại các làng nghề có dấu hiệu đình trệ do số đông hộ gia đình, doanh nghiệp năng lực tài chính có hạn. Tại hội nghị bàn biện pháp tháo gỡ khó khăn cho làng nghề tổ chức ở Hà Ðông cuối tháng 7-2008, đại diện các chi nhánh ngân hàng tại Hà Tây đều cho biết vốn giải ngân cho các làng nghề sáu tháng đầu năm 2008 khá thấp. Tại Chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội Hà Tây, trong sáu tháng đầu năm, chỉ có hơn bốn nghìn lượt khách hàng ở làng nghề được vay vốn, với dư nợ hơn 60 tỷ đồng. Tại Ngân hàng phát triển, chỉ các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp mới được vay vốn ưu đãi, sáu tháng đầu năm chỉ có bốn trong số hơn ba nghìn doanh nghiệp làng nghề được vay, số dư nợ vỏn vẹn hơn mười tỷ đồng.

Mở rộng thị trường, tìm đầu ra, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm đang là vấn đề khó với các làng nghề. Anh Hoàng Văn Hạnh, chủ một cơ sở mây tre đan ở làng Phú Vinh (Chương Mỹ) trăn trở: "Làng nghề có tuổi đời 500 năm với hàng trăm nghệ nhân, thiết kế được các mặt hàng tinh xảo (từng được giải thưởng trong và ngoài nước) nhưng đến nay vẫn chưa xây dựng được thương hiệu. Hàng hóa làm ra luôn bị động, chờ đợi các đơn hàng, có thời điểm làm không hết việc nhưng sau đó là chơi dài vì không có đơn đặt hàng. Phần lớn các doanh nghiệp ở đây chưa thể ký hợp đồng trực tiếp với đối tác nước ngoài, phải xuất hàng qua các đầu mối từ Hà Nội nên thường bị ép giá. Các nghệ nhân trong làng mặc dù tay nghề cao nhưng do ít có điều kiện tham quan, tìm hiểu thị trường, tham dự các hội chợ, triển lãm nên chậm đổi mới mẫu mã cho phù hợp với thị hiếu của khách hàng". Do luôn bị động trong vấn đề tìm đầu ra nên nhiều làng nghề không ít lần chịu thua thiệt. Theo chị Nguyễn Thị Tâm, chủ cơ sở dệt lụa của nghệ nhân Nguyễn Văn Mão, mặc dù làng dệt Vạn Phúc nổi tiếng hàng trăm năm nay, sản phẩm bán khắp trong ngoài nước nhưng mới chỉ dừng lại ở mức làm theo đơn hàng của nước ngoài với số lượng không lớn và chưa có cơ sở, doanh nghiệp nào đủ mạnh để đặt đại lý ở nước ngoài. Hiện nay, số cơ sở sản xuất, doanh nghiệp ở Vạn Phúc xuất hàng ra nước ngoài không nhiều bởi phần lớn không đủ kinh phí để tham dự các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước. 

Từ năm 2005, tỉnh Hà Tây (cũ) đã có chủ trương khuyến khích thành lập các cụm, điểm công nghiệp làng nghề. Theo quy hoạch giai đoạn 2006-2010, khu vực Hà Tây có 171 cụm, điểm công nghiệp. Nhưng đến nay, mới có gần 40 cụm, điểm được triển khai và hơn mười cụm, điểm đã đi vào hoạt động. Vướng mắc lớn nhất là các hộ sản xuất muốn thuê đất, xây dựng nhà xưởng tại cụm, điểm công nghiệp làng nghề nhưng không đủ khả năng vì giá thuê mặt bằng cao. Ở một số huyện như Quốc Oai, Phú Xuyên, Hà Ðông, Hoài Ðức, Phúc Thọ, các điểm công nghiệp khó hình thành do diện tích nhỏ (dưới 10ha/điểm) nên các doanh nghiệp xây dựng hạ tầng không mặn mà đầu tư. Trong khi đó, các hộ sản xuất, doanh nghiệp tại làng nghề không đủ khả năng để vừa đầu tư san lấp, xây dựng hạ tầng điểm công nghiệp và nhà xưởng, máy móc. Làng nghề tre guột Phú Túc (Phú Xuyên), giá trị sản xuất mỗi năm hàng trăm tỷ đồng nhưng đang rất bức bối vì mặt bằng chật hẹp, chủ yếu dùng sân, vườn làm nơi tập kết sản phẩm. Năm 2007, UBND huyện Phú Xuyên đã quy hoạch một điểm công nghiệp cho làng nghề này rộng bảy ha nhưng đến nay mới có một doanh nghiệp xây dựng nhà xưởng. Chủ một doanh nghiệp ở làng nghề Phú Túc cho biết, các doanh nghiệp muốn ra cụm công nghiệp để thuê đất nhưng chi phí cao. Tiền thuê đất, xây dựng nhà xưởng rộng khoảng một ha cũng mất hơn một tỷ đồng, chưa kể máy móc nên chỉ số ít doanh nghiệp có tiềm lực tài chính lớn mới dám vươn ra điểm công nghiệp. Trong khi đó, một số nơi người dân đủ khả năng tài chính nhưng việc thành lập điểm công nghiệp lại diễn ra quá chậm như tại làng nghề dệt lụa Vạn Phúc (Hà Ðông), tạc tượng Sơn Ðộng (Hoài Ðức), thú nhồi bông (Phúc Thọ)... Theo anh Nguyễn Văn May, Giám đốc Công ty mây tre Phú Tuấn (Phú Xuyên), mặt bằng đang trở nên rất quan trọng đối với kinh tế làng nghề. Nhiều đối tác nước ngoài khi xem mẫu mã rất ưng ý, nhưng khi thấy cơ sở sản xuất chật hẹp thì không ký hợp đồng nữa.

Cần được đầu tư nhiều hơn

Giám đốc Trung tâm khuyến công và hỗ trợ phát triển công nghiệp Hà Nội Ðào Thu Vịnh cho biết: Hiện nay, những chính sách, chương trình hỗ trợ, khuyến khích làng nghề phát triển của tỉnh Hà Tây (cũ) vẫn tiếp tục được triển khai. Ðó là các chương trình đào tạo, phát triển nghề, hỗ trợ xúc tiến thương mại, thành lập các Hiệp hội làng nghề, quy hoạch, phát triển du lịch làng nghề, xây dựng cụm, điểm công nghiệp làng nghề. Tuy nhiên, theo chị Ðào Thu Vịnh, thời gian qua, Hà Tây dù đã quan tâm đến khu vực làng nghề nhưng do ngân sách hạn chế nên việc đầu tư cho kinh tế làng nghề còn thấp, dừng ở mức khuyến khích, chủ yếu là chương trình khuyến công hằng năm. Hai năm 1999-2000 kinh phí khuyến công dành cho các làng nghề là một tỷ đồng/năm. Giai đoạn 2000-2005 là 1,5 tỷ đồng/năm, trong hai năm 2006-2007 là 2,4 tỷ đồng/năm. Từ khi mở rộng địa giới hành chính Thủ đô, các làng nghề trên đất Hà Tây càng có thêm cơ hội để phát triển như quảng bá, giới thiệu sản phẩm, thu hút vốn đầu tư, nâng cấp hạ tầng giao thông, dịch vụ tín dụng, điện, nước... Nhưng để kinh tế làng nghề thật sự trở thành nguồn lực mạnh trong phát triển kinh tế của thủ đô, khu vực làng nghề cần được đầu tư nhiều hơn nữa, với quy hoạch và chương trình hành động cụ thể.

Chủ tịch Hiệp hội mây tre giang đan Hà Tây Phạm Quốc Khánh, cho rằng: "Kiềm chế lạm phát đang là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ nhưng không nên quá thắt chặt tín dụng đối với kinh tế làng nghề. Không vay được vốn, hoặc với lãi suất cao nên hàng loạt doanh nghiệp ở các làng nghề ngừng sản xuất, hàng chục vạn lao động không có việc làm". Theo Giám đốc Trung tâm khuyến công và hỗ trợ phát triển công nghiệp Hà Nội Ðào Thu Vịnh, về lâu dài, Hà Nội nên thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các làng nghề. Bởi khi có Quỹ bảo lãnh tín dụng, chắc chắn khu vực làng nghề tiếp cận vốn ngân hàng sẽ thuận tiện hơn. Tại một số tỉnh như Yên Bái, Trà Vinh, Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được triển khai và hoạt động khá hiệu quả.

Giám đốc Công ty TNHH Thu Trang Trần Văn Cửu, cho rằng, những chính sách, chương trình xúc tiến thương mại, hỗ trợ vốn sản xuất, xây dựng hạ tầng làng nghề cần được triển khai sâu sát hơn. Như xúc tiến thương mại, không chỉ dừng ở việc tổ chức mỗi năm vài ba cuộc hội thảo, triển lãm mà thành phố nên có bộ phận nghiên cứu, tìm kiếm thị trường giúp khu vực làng nghề vốn đang yếu kém trong hoạt động này. Về giá thuê đất, nên có mức giá riêng dành cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất làng nghề để khuyến khích, hỗ trợ đầu tư sản xuất.

Có thể bạn quan tâm