Năm 2003, Chính phủ Hoa Kỳ khởi động Kế hoạch khẩn cấp của Tổng thống về phòng, chống AIDS (PEPFAR). Năm 2004, Việt Nam trở thành nước thứ 15 trên thế giới được tiếp nhận hỗ trợ từ Chính phủ Hoa Kỳ thông qua chương trình PEPFAR. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á nhận được hỗ trợ.
Là một nước trọng điểm trong giai đoạn đầu của PEPFAR, Chính phủ Hoa Kỳ đã trở thành nước hỗ trợ tài chính lớn nhất cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam, với ngân sách hằng năm khoảng năm 40 triệu đôla.
Việt Nam đã giữ vững tỷ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng dân cư ở mức dưới 0,3%
Phát biểu chúc mừng 20 năm Chương trình PEPFAR tại Việt Nam, Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan cho biết, Việt Nam đã từng bước kiểm soát được dịch HIV trên cả 3 tiêu chí đó là: Giảm số người nhiễm mới HIV được phát hiện, giảm số người chuyển sang giai đoạn AIDS và giảm số người tử vong liên quan đến AIDS. Việt Nam đã giữ vững tỷ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng dân cư luôn ở mức dưới 0,3%.
Cùng với Quỹ Toàn cầu, PEPFAR là nhà tài trợ lớn nhất cho chương trình phòng chống HIV/AIDS trong giai đoạn vừa qua.
Năm 2003 PEPFAR đã hỗ trợ Việt Nam 18 triệu USD và tăng dần hàng năm lên 98 triệu USD năm 2010. Giai đoạn 2004-2022, PEPFAR đã hỗ trợ cho Việt Nam gần 900 triệu đô la Mỹ.
Trong giai đoạn 2013-2023, PEPFAR vẫn là nhà tài trợ lớn nhất chiếm tới hơn 40% tổng chi cho HIV/AIDS. PEPFAR và Quỹ Toàn cầu đã đóng góp tới gần 90% tổng chi cho thuốc ARV. Ngoài ra PEPFAR trực tiếp hỗ trợ sinh phẩm xét nghiệm, thuốc methadone; thuốc điều trị dự phòng phơi nhiễm HIV cho các nhóm nguy cơ cao.
PEPFAR có thế mạnh trong các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật cung cấp dịch vụ từ tìm ca, đến kết nối, điều trị và dự phòng và triển khai các sáng kiến như: Đưa nhiều hình thức và mô hình xét nghiệm vào công tác tìm ca như tư vấn xét nghiệm bạn tình, bạn chích cải thiện tỷ lệ dương tính, chương trình dự phòng PrEP với các hoạt động tạo cầu và cải thiện chất lượng, và việc xét nghiệm phát hiện nhiễm mới, thiết lập hỗ trợ các phòng tham chiếu, hoạt động cấp phát thuốc nhiều tháng, các mô hình điều trị HIV sớm và hiệu quả, các chiến lược phát hiện và dự phòng Lao cho người có HIV.
Gần đây, PEPFAR hỗ trợ kỹ thuật triển khai sàng lọc và quản lý các bệnh không lây nhiễm như cao huyết áp, tiểu đường, rối loạn mỡ máu,... hướng tới chăm sóc toàn diện lấy con người làm trung tâm.
PEPFAR cũng đã hỗ trợ Cục Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế phát triển các hướng dẫn quốc gia dựa trên việc triển khai thí điểm các mô hình sáng kiến cải tiến kỹ thuật từ đó có thể triển khai trên toàn quốc.
PEPFAR đã chủ trì các sáng kiến tài chính bền vững trong đó có mở rộng chi trả của Quỹ BHYT cho các dịch vụ khám chữa bệnh HIV/AIDS, hỗ trợ các tỉnh, thành phố xây dựng và phê duyệt kế hoạch bảo đảm tài chính nhằm tăng chủ động từ các nguồn tài chính trong nước cho HIV/AIDS.
PEPFAR cũng hợp tác và hỗ trợ quá trình Chính phủ Việt Nam dần tự chủ thực hiện ứng phó với HIV, đồng thời có sự tham gia chiến lược của khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội dân sự để đưa các dịch vụ HIV đến gần hơn với cộng đồng và thúc đẩy năng lực của họ.
Tính đến cuối năm tài chính 2022, PEPFAR tiếp tục hỗ trợ kỹ thuật để đưa hơn 144.000 bệnh nhân điều trị ARV theo hình thức bảo hiểm y tế xã hội, trong đó có 80.000 bệnh nhân dùng thuốc TLD.
Trong năm 2022, chương trình PEPFAR Việt Nam đã hỗ trợ kỹ thuật giúp phát hiện 9.412 người có HIV, kết nối thành công 94% vào điều trị, thu dung 8,856 bệnh nhân vào điều trị ARV mới, đưa tổng số bệnh nhân đang điều trị bằng ARV lên 90,630 bệnh nhân và giúp đạt ngưỡng ức chế virus 98,8% tại 11 tỉnh, thành phố thuộc khu kinh tế phía bắc và vùng đô thị Thành phố Hồ Chí Minh.
Thông qua sự hợp tác thành công giữa Chính phủ Hoa Kỳ và Bộ Y tế, Việt Nam có tỷ lệ ức chế virus cao nhất được báo cáo trong các chương trình do PEPFAR hỗ trợ trên toàn cầu: 98% bệnh nhân được PEPFAR hỗ trợ điều trị HIV đã đạt được ngưỡng ức chế virus, có nghĩa là sức khỏe của họ được bảo vệ và họ không thể lây truyền HIV cho bạn tình của mình.
Với sự hỗ trợ của PEPFAR, chiến dịch K=K được triển khai ở Việt Nam rất thành công như điểm sáng trên thế giới. Sự thành công của chiến dịch này không chỉ giúp người nhiễm HIV tuân thủ điều trị mà còn giảm kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV.
Khi bắt đầu năm tài chính 2023, chương trình PEPFAR còn tiếp tục hỗ trợ mở rộng và đa dạng hóa các dịch vụ liên quan đến HIV cho các quần thể đích và sẽ đưa 18.000 người âm tính với HIV mới có nguy cơ lây nhiễm cao vào điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP).
PEPFAR hiện đang hỗ trợ tại 11 tỉnh trọng điểm có số người nhiễm còn sống chiếm 45,2 % trên cả nước.
Phát biểu tại buổi lễ kỷ niệm, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam - Marc E. Knapper’s cho hay, các nguồn lực của PEPFAR và Quỹ Toàn cầu đã cùng nhau hỗ trợ trực tiếp 90% chi phí mua sắm thuốc kháng virus (ARV) của Việt Nam để điều trị cho khách hàng, mang lại cho những người sống chung với HIV một cơ hội mới để không chỉ sống sót mà còn phát triển.
Với sự hỗ trợ của PEPFAR, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể từ năm 2014 trong việc làm chủ và dẫn dắt các nỗ lực ứng phó với HIV của mình. Hiện nay, hơn 70% trong số ước tính khoảng 240.000 người nhiễm HIV ở Việt Nam nhận được thuốc kháng virus thông qua bảo hiểm y tế, được tài trợ bởi các nguồn lực trong nước.
Từ năm 2021 đến năm 2022, PEPFAR Việt Nam đã cung cấp hỗ trợ kỹ thuật quan trọng để hỗ trợ tiếp nhận 8.727 bệnh nhân mới điều trị bằng thuốc kháng virus, đồng thời giúp duy trì ít nhất 89.000 người đang điều trị.
“Chúng tôi tự hào về những kết quả này, thể hiện rõ ràng nỗ lực chung của PEPFAR và Chính phủ Việt Nam nhằm xây dựng một chương trình ứng phó với HIV quốc gia bền vững, có tác động lớn ở Việt Nam nhằm đẩy nhanh tiến độ hướng tới các mục tiêu toàn cầu của UNAIDS, nhằm kiểm soát dịch HIV vào năm 2030”, ngài Đại sứ cho hay.
Việt Nam tiến tới mục tiêu 95-95-95
Tại sự kiện, Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan bày tỏ mong muốn PEPFAR tiếp tục hỗ trợ Bộ Y tế một số giải pháp ưu tiên đặc biệt là hỗ trợ cung ứng thuốc, sinh phẩm xét nghiệm HIV trong tình trạng khẩn cấp đặc biệt trong bối cảnh ngành y tế đang gặp nhiều khó khăn về vấn đề mua sắm và cung ứng thuốc, hàng hóa và vật tư y tế.
Một số ưu tiên khác bao gồm mở rộng các mô hình tư vấn và xét nghiệm, mở rộng các tỉnh thụ hưởng trong chiến lược đáp ứng y tế công cộng để có đầy đủ các bằng chứng nhằm đưa ra các can thiệp phù hợp.
Ngoài ra đứng trước tình hình dịch đang có xu hướng tăng nhanh trong nhóm nam quan hệ đồng giới, nhóm chuyển giới, Bộ trưởng Y tế đề nghị PEPFAR hỗ trợ chiến lược tổng thể để can thiệp giảm bớt nguy cơ dịch HIV đang tăng nhanh trong nhóm này.
"Chính phủ Việt Nam vẫn cam kết cùng với hỗ trợ của PEPFAR để tiếp tục xây dựng các cơ chế tài chính cho việc chuyển giao bền vững các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS, tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân, sự tham gia của các tổ chức xã hội trong đầu tư và cung cấp dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS nhằm bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực huy động", Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan nhấn mạnh.
Việt Nam thực sự nổi bật như một thí dụ toàn cầu về tính bền vững và huy động nguồn lực trong nước thông qua chương trình bảo hiểm y tế. Việt Nam đã rất nhanh nhạy trong việc thích ứng với những đổi mới, tiến bộ khoa học để triển khai ứng phó toàn diện.
Một yếu tố quan trọng khác cho sự thành công của Việt Nam là khả năng thu hút sự tham gia của nhiều bên liên quan, từ các bộ và cơ quan ở cấp quốc gia, đến các cơ quan cấp tỉnh, các viện nghiên cứu và học thuật, các tổ chức xã hội, khu vực tư nhân đang phát triển nhanh và các thành viên tận tâm của cộng đồng và các tổ chức dựa vào cộng đồng.
Tiến sĩ John N.Nkengasong, Đại sứ PEPFAR toàn cầu
Đại sứ PEPFAR toàn cầu - Tiến sĩ John N.Nkengasong cho hay, PEPFAR hiện có 25 chương trình song phương. Trong số các quốc gia này, một số quốc gia đã đạt được mục tiêu 95-95-95; một số khác đang đạt 90-90-90. Việt Nam nằm trong nhóm thứ hai.
Trong số ước tính có khoảng 250.000 người nhiễm HIV trên cả nước, hơn 210.000 người biết tình trạng nhiễm HIV của mình và hơn 171.000 người đang điều trị bằng thuốc kháng virus (tương ứng là 84 và 81%). Tỷ lệ ức chế virus là 96% đối với những người đang điều trị là rất cao. Việt Nam đang rất gần đạt được các mục tiêu 90-90-90. Tuy nhiên, còn rất nhiều việc phải làm để đạt được 95-95-95 vào năm 2030.
“PEPFAR hiện đang hoạt động tại 11 tỉnh trọng điểm. Nhưng trong vài năm tới, PEPFAR sẽ chuyển sang hỗ trợ kỹ thuật nhiều hơn ở những khu vực có các điểm nóng mới. Mục tiêu của chúng tôi là hỗ trợ chiến lược quốc gia kiểm soát dịch bệnh đến năm 2030, trong đó Chính phủ Việt Nam, ở cả cấp quốc gia và địa phương đi đầu”, Đại sứ Nkengasong cho hay.
Chương trình PEPFAR tại Việt Nam được thực hiện bởi các cơ quan của Chính phủ Hoa Kỳ: Trung tâm Kiểm soát và Dự phòng Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Bộ Quốc phòng (DOD), và Bộ Ngoại giao. CDC Hoa Kỳ là đơn vị làm việc trực tiếp với các cơ quan của Chính phủ Việt Nam như Cục Phòng, Chống HIV/AIDS và các đơn vị trong ngành y tế và một số các đối tác như như Tổ chức PATH, Đại học San Francisco … USAID hỗ trợ thông qua các tổ chức phi chính phủ, tổ chức cộng đồng trong và ngoài nước như FHI360, PATH, Trung tâm Life, Dự án LHSS (bễn vững tài chính y tế), … DOD hỗ trợ một số can thiệp trong quân đội thông qua hợp tác đối tác với Cục Quân Y, Bộ Quốc Phòng.
Chương trình PEPFAR hiện tại tập trung vào một kế hoạch nhằm hỗ trợ cho Chiến lược phòng, chống HIV/AIDS của Việt Nam trong đó tập trung vào 3 mục tiêu chính: Đẩy nhanh tiến độ đạt mục tiêu 95-95-95 tại 11 tỉnh, thành phố có sự hỗ trợ của PEPFAR tại vùng kinh tế phía bắc và vùng đô thị Thành phố Hồ Chí Minh; bảo đảm chuyển đổi bền vững trách nhiệm chính về tài chính, hành chính và kỹ thuật của các dịch vụ chăm sóc và điều trị HIV cho Chính phủ Việt Nam; ứng phó với các khu vực/nhóm hành vi nguy cơ mới nổi về lây nhiễm HIV trên toàn quốc thông qua sáng kiến đáp ứng y tế công cộng (PHCR).