Những người con đất Việt trở về

Năm 1975, trên tàu hỏa về Hà Nội, qua các sân ga, tôi thấy nhiều người ôm ghì lấy nhau. Quân phục bạc mầu, vai khoác ba-lô, những người lính từ chiến trường trở về với cha mẹ, vợ con, anh em. 40 năm sau, tôi lại lênh đênh trên tàu, nhưng lần này là tàu biển trong một chuyến đi do Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài tổ chức, đến với những người lính đang ngày đêm canh giữ biển trời Tổ quốc ở Trường Sa.

Đoàn Việt kiều thăm đảo Song Tử Tây (Trường Sa, Khánh Hòa).
Đoàn Việt kiều thăm đảo Song Tử Tây (Trường Sa, Khánh Hòa).

Trong suốt 30 năm, người Việt Nam đã phải cầm vũ khí tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, để đất nước có ngày thống nhất năm 1975. Nhưng thống nhất, hòa bình tròn 40 năm, mà giữa những ngày tháng tư năm 2015, ở Biển Đông, tôi lại gặp những người lính vẫn đang cầm súng canh giữ biển trời Tổ quốc. Nhìn những Anh Bộ đội Cụ Hồ tuổi đôi mươi, da đen cháy vì nắng gió biển khơi, nhưng vui vẻ, yêu đời không khác gì tôi và đồng đội hơn 40 mươi năm trước, tôi thấy se lòng. Họ đến Trường Sa từ mọi miền đất nước, người từ Thái Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Nghệ An, người từ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, TP Hồ Chí Minh,... Đất nước đã cố gắng lo toan để người chiến sĩ có thêm phương tiện khắc phục điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, có cuộc sống vật chất tạm đủ đầy, nhưng dù thế, cũng khó có thể khỏa lấp nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ người thân, nhớ đất liền. Và giữa Biển Đông, giữa thời bình, vẫn có những người lính hy sinh. Trên đảo Nam Yết, đứng trước bia mộ khắc tên binh nhất Nguyễn Vũ Hoàng Phương, quê ở Cam Đức, Cam Lâm, Khánh Hòa, sinh 23-4-1995, nhập ngũ tháng 9-2013, mất 14-2-2014; nhớ tới bia mộ trên đảo Song Tử Tây ghi tên liệt sĩ Tống Văn Quang hy sinh ngày 14-4-1975 - khi còn 16 ngày nữa là đến ngày Đại thắng, tôi đã không thể ngăn nổi những giọt nước mắt. Quanh tôi khi ấy, nhiều người cũng đang khóc. Họ là người gốc Việt từ Pháp, Đức, Ca-na-đa, Mỹ, Xin-ga-po, Cam-pu-chia, Ô-xtrây-lia, Áo, Séc, I-xra-en... trở về thăm Tổ quốc và đến với Trường Sa. Họ bảo với tôi, họ tự hào vì được về thăm Tổ quốc đúng dịp kỷ niệm 40 năm Ngày đất nước thống nhất. Họ đến Trường Sa để thấy chủ quyền đất nước luôn được bảo vệ, với những người lính kiên cường vững vàng cầm chắc tay súng nơi đầu sóng, để chia sẻ và thấu hiểu sự gian khổ, sức chịu đựng, ý chí của những "Anh Bộ đội Cụ Hồ".

Tối hôm trước, lúc giao lưu văn nghệ, thấy anh Henri Đặng - người Pháp gốc Việt đứng riêng một góc, tay liên tục chấm nước mắt, tôi đi ra chỗ khác, để anh được tự nhiên. Tới khi đứng trước mộ liệt sĩ, thấy mắt anh lại đỏ hoe, tôi ngoảnh nhìn nơi khác thì anh nắm lấy tay tôi, nghẹn ngào: "Các em còn trẻ quá!". Tôi chỉ biết nắm tay anh thật chặt.

Một buổi trưa trên boong tàu, sóng lừng ào ạt, con tàu trồi lên trụt xuống, anh Hồ Ngọc Thắng, người Đức gốc Việt đưa cho tôi xem "Chứng minh thư Quân giải phóng" được cấp năm 1972 khi anh vào chiến trường Quảng Trị. Mấy chục năm qua, sống xa quê hương nhưng tấm chứng minh thư là niềm tự hào của anh và nó luôn nằm cùng những giấy tờ tùy thân. Anh bảo, chuyến này đi là một sự kiện trọng đại của đời mình. Hai chặng đường dài nhất đất nước là vượt Trường Sơn và vượt Biển Đông anh đã trải qua. Nếu chuyến đi hơn 40 năm trước gian khổ bao nhiêu, thì chuyến này đi thanh bình bấy nhiêu, nhưng vẫn canh cánh trong anh nỗi lo bảo vệ chủ quyền biển đảo trên Biển Đông; anh thương những người lính chỉ như con cháu mình. Cũng như Henri Đặng, khi nói chuyện với tôi, anh luôn đưa khăn chấm những giọt nước mắt...

Có một điều dễ nhận ra trong suốt chuyến đi là sự hồ hởi, niềm tự hào là con dân nước Việt, của những người đến từ gần 20 quốc gia. Là con dân nước Việt, dù gặp nhau ở đâu họ vẫn là đồng bào. Nên có thể coi chuyến tàu thăm Trường Sa là nơi biểu hiện của tinh thần hòa hợp dân tộc. Nói tiếng Việt rành rẽ hay có pha âm sắc nước ngoài thì mọi người vẫn tìm được tiếng nói chung.

Lúc họ hò reo bên bàn cờ tướng. Lúc họ nắm tay nhau thành vòng tròn cùng hát Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng, Nối vòng tay lớnvà các bài hát về một thời hào hùng của dân tộc, về người mẹ Việt Nam. Lúc lại thấy người ở quốc gia này rủ người ở quốc gia khác đi thăm bộ đội, hay rì rầm tâm sự trên boong tàu. Lúc có người ngồi trầm ngâm, dõi ánh mắt về phía biển xa, như đang nghĩ về cuộc gặp gỡ chốc lát với người lính, người dân trên đảo.

Rồi là những cánh tay vẫy chào, những lá cờ đỏ sao vàng tung bay, những lời hẹn gặp lại và cả sự lưu luyến không muốn rời xa mạn tàu mỗi khi con tàu tạm biệt một đảo chìm, đảo nổi... Sau mỗi lần như vậy, ai cũng tâm sự với tôi rằng, sự đóng góp của mình chưa thấm gì so với Bộ đội Trường Sa.

Sóng to gió cả, con tàu bập bềnh. Chiếc xuồng máy chuyển quà sang nhà giàn nhấp nhô, vừa vọt lên cao đã khuất dạng sau con sóng lớn. Sau khi nhận thông báo vì sóng to, không thể lên được nhà giàn, mắt nhiều người nhòe lệ. Diễn viên Nhà hát ca múa nhạc Quân đội đã sẵn sàng xuống xuồng đành phải ở lại. Cũng vì thế, lần đầu tôi được chứng kiến họ hát cho bộ đội nghe qua máy điện đàm. Các anh chị hát mà mắt đỏ hoe, những giọt lệ lăn dài. Phòng chỉ huy tàu đông nghẹt. Mọi người cùng hát, hát say sưa, hát như để những người lính trên ngôi nhà giàn đang mờ tỏ trong mưa biết mọi người đang đồng lòng đứng bên họ. Và khi những người lính nhà giàn đáp lời bằng tiếng hát hào hùng được tiếp âm, khuếch đại qua loa thì tất cả lặng đi, anh bạn Nga gốc Việt bên tôi thì thầm: "Đúng là Bộ đội Cụ Hồ!". Lúc ấy, tôi nghĩ tới con đường hòa bình, thống nhất, hòa hợp dân tộc để xây dựng, bảo vệ Tổ quốc là con đường mọi người Việt Nam đã và sẽ đi qua. Và tôi tin, trên con đường đó vẫn luôn vang vọng tinh thần bài thơ Nam quốc sơn hàkhắc trên bia đá mà Các hội thánh và tổ chức Cao Đài gửi tặng bộ đội Trường Sa được gắn trên đảo Đá Lát, giữa trập trùng sóng nước Biển Đông!

Có thể bạn quan tâm