III - Để hiểu một sự kiện lịch sử phức tạp
Nói đến vai trò của Tổng Bí thư Trần Phú trong công tác xây dựng Ðảng và công tác dân vận, không thể không đề cập đến những văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng phê phán "sai lầm" của Hội nghị thành lập Ðảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Án nghị quyết của Trung ương toàn thể Ðại hội nói về tình hình hiện tại ở Ðông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Ðảng, tháng 10-1930, phân tích "những sai lầm" đó trên các mặt sau đây:
- Về phương pháp thành lập Ðảng: không lựa chọn những phần tử ưu tú trong các tổ chức tiền thân của Ðảng để kết nạp vào Ðảng, mà hợp nhất các tổ chức đó.
- Về chính trị: Vấn đề ruộng đất "không rõ ràng và có chỗ không đúng" như chia địa chủ thành đại, trung, tiểu địa chủ và chỉ tịch thu ruộng đất của đại địa chủ; lợi dụng trung, tiểu địa chủ, ít ra cũng làm cho họ đứng trung lập.
Ðối với giai cấp tư sản thì cho rằng, phải lợi dụng những tư sản chưa lộ mặt phản cách mạng. Những quan điểm trên đều là những điều sai lầm về sách lược và "tỏ ra rằng chỉ lo đến việc phản đế, mà quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu ấy là một sự rất nguy hiểm" (1).
- Về Ðiều lệ và tên Ðảng: trong hệ thống tổ chức của Ðảng, bỏ mất cấp xứ, Trung ương phải trực tiếp chỉ đạo cấp tỉnh, như vậy sẽ không còn thì giờ để giải quyết những nhiệm vụ quan trọng của toàn Ðảng.
Ðảng mang tên Ðảng Cộng sản Việt Nam, thì không bao gồm được giai cấp vô sản của Cao Miên và Lào, hai xứ ấy có quan hệ chặt chẽ với Việt Nam về chính trị và kinh tế.
Xuất phát từ những lý do trên, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Ðảng quyết định "Thủ tiêu chánh cương sách lược và Ðiều lệ cũ của Ðảng, lấy kinh nghiệm trong thời kỳ vừa qua mà thực hành công việc cho đúng như Án nghị quyết và Thơ chỉ thị của Quốc tế Cộng sản" (2). Hội nghị quyết định bỏ tên Ðảng Cộng sản Việt Nam, lấy tên Ðảng Cộng sản Ðông Dương.
Những điều bị coi là "sai lầm" chính là những sáng tạo đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc trong việc vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với điều kiện cụ thể của công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động ở Việt Nam và thành lập Ðảng Cộng sản Việt Nam.
Sở dĩ có quyết định trên của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng và Tổng Bí thư Trần Phú chủ yếu là do sự chỉ đạo gần như tuyệt đối của Quốc tế Cộng sản về tư tưởng chính trị và tổ chức. Có thể thấy rõ điều đó khi đối chiếu những nhận định của Trung ương Ðảng và Trần Phú về "sai lầm" của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị thành lập Ðảng, như đã trình bày, với những luận điểm của Quốc tế Cộng sản nêu ra trong Ðề cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa của Ðại hội lần thứ VI của Quốc tế Cộng sản, ngày 1 tháng Chín 1928. Bản Ðề cương này xác định đúng đắn con đường phát triển của cách mạng thuộc địa và nửa thuộc địa là "phải tiến hành một cuộc cách mạng dân chủ tư sản, nghĩa là giai đoạn chuẩn bị tiền đề cho nền chuyên chính vô sản và cách mạng xã hội chủ nghĩa" (3). Nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng ấy là giải phóng đất nước khỏi chủ nghĩa đế quốc, thành lập chính quyền công nông; thực hiện cách mạng ruộng đất, giải phóng nông dân khỏi các hình thức bóc lột trước chủ nghĩa tư bản; phát triển, mở rộng tổ chức công đoàn, củng cố Ðảng Cộng sản, tạo cho Ðảng vai trò lãnh đạo vững chắc quần chúng lao động, áp dụng chế độ làm việc 8 giờ/ngày cho công nhân; thực hiện quyền bình đẳng dân tộc và quyền bình đẳng nam, nữ, mở mang giáo dục nâng cao trình độ chính trị và kiến thức chung cho quần chúng.
Bản Ðề cương của Ðại hội VI Quốc tế Cộng sản rất coi trọng và đánh giá cao yếu tố dân tộc và ảnh hưởng của nó đối với quá trình cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, chẳng những nó làm bùng nổ phong trào cách mạng của công nông, mà còn có tác dụng tích cực đến sự thay đổi lập trường của các giai cấp khác. Trên cơ sở những nhận định đó, bản Ðề cương của Quốc tế Cộng sản chỉ đạo các Ðảng Cộng sản: "Ðiều hết sức quan trọng là phải tùy theo từng trường hợp cụ thể mà nghiên cứu cẩn thận ảnh hưởng đặc biệt của yếu tố dân tộc, là yếu tố quyết định phần lớn tính chất độc đáo của cách mạng thuộc địa; phải hết sức chú ý đến điểm ấy trong sách lược của Ðảng Cộng sản" (4).
Ðáng tiếc quan điểm đúng đắn ấy lại không được quán triệt ngay trong bản Ðề cương. Khi nhận định thái độ chính trị của tầng lớp tiểu tư sản, tư sản, trí thức ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa, Quốc tế Cộng sản lại chỉ nhấn mạnh những mặt tiêu cực, chưa nêu lên đúng mức những mặt tích cực của họ mà Ðảng Cộng sản có thể khai thác, phát huy trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Cách nhìn đó ảnh hưởng rất rõ đến quan điểm của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng ta và Tổng Bí thư Trần Phú trong những nhận xét về tư sản, tiểu tư sản và trí thức, học sinh. Luận cương chánh trị cho rằng, tư sản thương mại chống cách mạng, tư bản công nghệ đứng về phía quốc gia cải lương; tiểu tư sản công nghiệp do dự, tiểu thương gia không tán thành cách mạng; trí thức, học sinh chỉ hăng hái tham gia chống đế quốc ở lúc ban đầu.
Dựa vào những quan điểm của Ðề cương về cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, và những hiểu biết nhất định về Ðông Dương, tháng 12 năm 1929, Quốc tế Cộng sản ra bản Nghị quyết về Ðông Dương, quy định những điều kiện thành lập Ðảng Cộng sản là: cải thiện thành phần xã hội của Ðảng Cộng sản, vì cho rằng thành phần của các tổ chức cộng sản đang tồn tại năm 1929 ở Ðông Dương rất phức tạp, do vậy, "cần phải tập hợp lại hết thảy những cái gì ưu tú nhất, cách mạng và tích cực trong tất cả các nhóm, trên cơ sở một cương lĩnh hành động rõ ràng minh bạch. Ðây là nhiệm vụ trung tâm, là nghĩa vụ của tất cả mọi người cộng sản Ðông Dương" (5). Ðồng thời, cũng phải đề phòng hành vi chia rẽ của các nhóm cũ mang vào trong Ðảng. Ðảng Cộng sản nhất thiết phải là người cầm đầu phong trào cách mạng, giai cấp vô sản phải là giai cấp lãnh đạo, những chiến sĩ công nhân ưu tú nhất phải được đề bạt vào những chức vụ chỉ huy, trong Ban Chấp ủy Trung ương ít nhất phải bao gồm phần nửa số công nhân đó. Ðiều kiện quan trọng nhất là phải có một cương lĩnh chính trị phù hợp với đường lối chung của Quốc tế Cộng sản.
Phải chọn những người cách mạng ưu tú nhất để đưa vào Ðảng Cộng sản thống nhất.
Quốc tế Cộng sản chỉ rõ thái độ của Ðảng Cộng sản Ðông Dương đối với giai cấp địa chủ là "Tịch thu không bồi thường ruộng đất của địa chủ". Tức là đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ. Về giai cấp tư sản, Quốc tế Cộng sản nhận định: "Ðiều rõ ràng là giai cấp tư sản, trong toàn bộ của họ, không thể nào vượt quá giới hạn của chủ nghĩa quốc gia cải lương và với đà phát triển của cách mạng ruộng đất, nhất định họ sẽ nhảy qua hàng ngũ phản cách mạng... Chính yếu tố này sẽ quyết định lập trường của chúng ta đối với giai cấp tư sản" (6).
Ðối với phú nông, Quốc tế Cộng sản cho rằng, đế quốc Pháp tìm cách lôi kéo họ "vào mặt trận phản cách mạng bằng cách hứa hẹn những điều cải cách có lợi cho họ" (7).
Trí thức và tiểu tư sản, theo Quốc tế Cộng sản, cũng không phải là lực lượng liên minh của giai cấp vô sản. Riêng trí thức, Ðề cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nói rõ: họ là đại biểu kiên quyết nhất không những cho lợi ích riêng của giai cấp tiểu tư sản mà cả cho lợi ích của giai cấp tư sản, chỉ có một số ít thoát ly khỏi giai cấp họ, nhận thức được nhiệm vụ đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và trở thành những người bảo vệ tích cực lợi ích vô sản.
Còn giai cấp tiểu tư sản, Nghị quyết về Ðông Dương của Quốc tế Cộng sản, tháng 12-1929, đánh giá bộ phận nghèo khổ là cách mạng nhất. "Tuy vậy, không nên cường điệu khuynh hướng cách mạng của giai cấp tiểu tư sản thành thị, lại càng không nên xem những phần tử ít cách mạng nhất, tầng lớp tiểu thương, như là động lực của cách mạng" (8).
Ngoài các chiến lược và sách lược trên, Nghị quyết về Ðông Dương của Quốc tế Cộng sản, tháng 12-1929, còn ghi một điều kiện rất quan trọng là Quốc tế Cộng sản "chỉ có thể thừa nhận là tổ chức của Ðảng Cộng sản Ðông Dương... chỉ những tổ chức và nhóm hoàn toàn chấp nhận những quyết định của Ban Chấp ủy Quốc tế Cộng sản và của Quốc tế Cộng sản" (9).
Trung ương Ðảng giải thích Ðảng ta nhất thiết phải chấp hành sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản: "Hiện nay tuy Ðảng chúng ta chưa thành một chi bộ của Q.t, nhưng Q.t đối với Ðảng chúng ta cũng như đối với một chi bộ. Vậy bổn phận của chúng ta đối với Q.t cũng phải như các chi bộ Q.t thì sau mới gia nhập Q.t được" (10). Thế là rõ, những điểm chưa thống nhất giữa Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (tháng 10-1930) với Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt trên vấn đề sách lược đối với các tầng lớp trên, có phần quan trọng do bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, Ðảng ta (cả Nguyễn Ái Quốc, cả Trần Phú) không thể không tuyệt đối phục tùng đường lối Ðại hội VI Quốc tế Cộng sản và Nghị quyết về Ðông Dương của Quốc tế Cộng sản tháng 12-1929.
Giải thích lý do xảy ra những chủ trương khác nhau giữa Quốc tế Cộng sản và Nguyễn Ái Quốc chung quanh sự kiện thành lập Ðảng Cộng sản Việt Nam, Trung ương Ðảng chỉ rõ: "Tại sao chủ trương của H.n.h.n (Hội nghị hợp nhất, tức Hội nghị thành lập Ðảng Cộng sản Việt Nam - T.g) lại có nhiều chỗ không đúng với chủ trương của Q.t? Ðồng chí đứng ra chiêu tập H.n.h.n năm trước kia thì được Q.t cho về tùy hoàn cảnh mà làm việc chứ chưa có được kế hoạch rõ ràng gì. Khi đồng chí ấy về đến nơi thì thấy phong trào cộng sản tuy mới nổi nhưng đã chia rẽ rồi nên tự ý hành động có nhiều việc sai lầm không đúng với kế hoạch của Q.t. Vì đó mà có Hội nghị hiệp nhất" (11). Ðoạn văn trên càng cho chúng ta hiểu rõ hơn tinh thần chủ động và sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc trong việc tổ chức Hội nghị thành lập Ðảng, trước khi nhận được Nghị quyết về Ðông Dương, tháng 12-1929, của Quốc tế Cộng sản chỉ đạo thành lập Ðảng ta.
Nhân đây, chúng tôi muốn góp phần lý giải một sự thật lịch sử về sự bất đồng, và rồi nhất trí, nhưng chưa nhất quán, giữa Trung ương Ðảng, Tổng Bí thư Trần Phú với Nguyễn Ái Quốc về sách lược đối với các tầng lớp trên trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nếu như Án nghị quyết của Trung ương toàn thể Ðại hội nói về tình hình hiện tại ở Ðông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Ðảng tháng 10-1930 và Thư của Trung ương gửi các cấp Ðảng bộ, ngày 9-12-1930, thể hiện sự bất đồng, thì khoảng giữa hai văn kiện đó là Chỉ thị của Trung ương Thường vụ về vấn đề thành lập Hội "Phản đế đồng minh" ngày 18-11-1930 và sau hai văn kiện đó là Chỉ thị của Trung ương gửi Xứ ủy Trung Kỳ về vấn đề thanh đảng Trung Kỳ, ngày 20-5-1931, lại biểu thị sự nhất trí của Trung ương và Tổng Bí thư Trần Phú với quan điểm của Nguyễn Ái Quốc. Vì sao có tình hình đó?
Có thể luận giải hiện tượng lịch sử đó trước hết là do tác động của những quan điểm của Quốc tế Cộng sản về cách mạng Ðông Dương như đã trình bày. Hai là, do công tác tư tưởng - lý luận, hệ thống tổ chức và chỉ đạo của các cấp bộ Ðảng còn đang ở bước đầu hình thành, trong điều kiện đó, việc thấu hiểu một chân lý mới mẻ do Nguyễn Ái Quốc phát hiện, khác lạ với những quan điểm của Quốc tế Cộng sản, thật không dễ dàng, từ đó phát sinh những nhận thức khác nhau, thiếu nhất quán và thuần thục, đến chỗ tự mâu thuẫn, trước sau không lô-gíc. Ba là, lúc này Ðảng đang phải ra sức tập hợp, tổ chức và lãnh đạo quần chúng công nông, lực lượng cách mạng quan trọng nhất là tập trung mũi nhọn đấu tranh chống chủ nghĩa quốc gia cải lương tư sản đang tranh chấp quần chúng với Ðảng.
Trong khi đó, từ thực tiễn đấu tranh trong cao trào cách mạng 1930-1931, đã xuất hiện nhiều tín hiệu rõ rệt về thái độ tích cực ủng hộ cách mạng của một số không ít người thuộc các tầng lớp trên. Hiện tượng đó tác động mạnh tới tư duy chính trị của Trung ương Ðảng và Tổng Bí thư Trần Phú về sách lược cần vận dụng, đưa tới những nhận thức đúng đắn, phù hợp với những quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về đại đoàn kết dân tộc. Ðiều này chứng minh quả là "thực tiễn cao hơn nhận thức" (Lê-nin).
Những ý kiến trên của chúng tôi chỉ mới là những suy nghĩ bước đầu; để nghiên cứu thấu đáo một vấn đề rất đáng quan tâm như vậy trong thời kỳ đầu lịch sử Ðảng ta, đòi hỏi sự đóng góp của tập thể các nhà khoa học, các chuyên gia về lịch sử Ðảng.
Thế nhưng, vấn đề ở đây còn cần được suy nghĩ trên một tầm rộng hơn, sâu hơn, bao quát một thời kỳ lịch sử trước khi Bác Hồ về nước (năm 1940) trực tiếp lãnh đạo phong trào. Có mấy nội dung và dữ kiện cần được lưu ý.
1 - Sự khác nhau giữa Luận cương chánh trị với Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt chủ yếu là khác nhau trên vấn đề sách lược, còn về chiến lược, tức đường hướng cơ bản của cách mạng thì hoàn toàn thống nhất:
Cả hai đều khẳng định vai trò lãnh đạo cách mạng của Ðảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp vô sản.Cả hai đều chủ trương trước làm cách mạng tư sản dân quyền, đánh đổ đế quốc, phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng, sau đó tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Cả hai đều chủ trương thành lập chính phủ công nông sau khi giành được chính quyền.
Cả hai đều chủ trương ủng hộ Liên Xô, liên kết với vô sản thế giới và các dân tộc thuộc địa, nửa thuộc địa.
Về lý luận và hệ tư tưởng, cả hai đều dựa vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Những chỗ thống nhất ấy về chiến lược cách mạng giữa hai văn kiện Luận cương chánh trị và Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt cũng đồng thời phù hợp với đường lối chiến lược cơ bản của Quốc tế Cộng sản. Theo chúng tôi, chỗ thống nhất đó ta cần thấy, cần nhấn mạnh, chứ không chỉ thấy và nhấn mạnh chỗ khác nhau.
2 - Tuy giữa Trần Phú và Ban Chấp hành Trung ương với Nguyễn Ái Quốc lúc đầu có khác nhau về chủ trương sách lược đối với các tầng lớp trên, nhưng Trần Phú và Ban Chấp hành Trung ương, qua thực tiễn, đã rất nhanh nhậy và chủ động điều chỉnh quan điểm đến mức hoàn toàn thống nhất với quan điểm Nguyễn Ái Quốc. Ðiều này thể hiện rất rõ trước hết ở Chỉ thị của Trung ương Thường vụ về vấn đề thành lập Hội "Phản đế đồng minh" ngày 18-11-1930 và cũng được thể hiện rõ ở tinh thần Chỉ thị của Trung ương gửi Xứ ủy Trung Kỳ về vấn đề thanh đảng Trung Kỳ (20-5-1931) như đã dẫn ra ở trên.
Ðáng chú ý là Chỉ thị của Thường vụ Trung ương về thành lập Hội Phản đế đồng minh ra ngày 18-11-1930, nghĩa là sau Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 khoảng trên dưới một tháng! Chỉ khoảng một tháng thôi, nhưng nếu Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 phê phán Nguyễn Ái Quốc thì Chỉ thị của Thường vụ Trung ương ngày 18-11-1930 lại hoàn toàn như tư tưởng Nguyễn Ái Quốc. Ðó là tư tưởng Nguyễn Ái Quốc không có Nguyễn Ái Quốc, bởi lúc đó Bác đang ở nước ngoài, không trực tiếp chỉ đạo Trung ương. Ðiều này làm nổi rõ hai mặt: một mặt, nói lên sự sáng suốt vĩ đại về sách lược cách mạng ngay từ đầu của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Mặt khác, nói lên ý thức thực tiễn sâu sắc, sự nhậy bén và sáng suốt về chính trị đã giúp Trần Phú và Ban Chấp hành Trung ương kịp thời điều chỉnh sách lược cho phù hợp thực tế.
Chỉ thị của Trung ương Thường vụ về vấn đề thành lập Hội "Phản đế đồng minh" ngày 18-11-1930 vạch rõ giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là "hai động lực chính căn bản cho sự bố trí hàng ngũ cách mạng; còn mặt khác nữa là giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Ðông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật đông, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công (rộng là toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến làm tay sai phản động hèn hạ; kín là đặt để công nông trong bức thành dân tộc phản đế bao la)" (12).
Chỉ thị phê phán: "Từ trước các đồng chí chưa rõ vấn đề ấy, mà nay cũng vẫn mập mờ, nên dù tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông và là một màu sắc nhất định - như: Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Thanh niên đỏ, Sinh hội đỏ và Cứu tế đỏ; do đó thiếu mặt tổ chức thật quảng đại quần chúng, hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên hay ở vào lớp giữa cũng vậy, và cho tới cả những người địa chủ, có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia, để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp, để cần kíp tổng động viên toàn dân nhất tề hành động mặt này hay mặt khác, mà chống khủng bố trắng và ủng hộ cách mạng công nông" (13).
Rõ ràng đó là tư tưởng đoàn kết toàn dân, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở "công nông là gốc". Ðó là tư tưởng lớn của Ðảng ta, đó là tư tưởng Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Tư tưởng này xuyên suốt lịch sử cách mạng Việt Nam bởi nó có gốc rễ sâu xa trong những điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam, trong truyền thống dân tộc mấy ngàn năm lịch sử, trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân. Chính sức mạnh bắt nguồn từ những cơ sở thực tiễn này rốt cuộc đã xóa nhanh một bất đồng rất nhất thời và đã gắn kết nhanh làm một Trần Phú với Nguyễn Ái Quốc năm 1930. Hơn nữa, chính sức mạnh đó đã khiến cho lịch sử Ðảng ta có những thời kỳ tuy Bác Hồ hoạt động ở nước ngoài, không trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo Ðảng, nhưng về khách quan lịch sử, tư tưởng đoàn kết toàn dân vẫn cứ tác động xuyên suốt. Chúng tôi hiểu đó là tư tưởng Hồ Chí Minh không có Hồ Chí Minh, bởi tư tưởng lớn ấy mang sức mạnh của chính chân lý lịch sử.
Vậy là, kỷ niệm lần thứ 100 Ngày sinh đồng chí Trần Phú - Tổng Bí thư đầu tiên của Ðảng ta, một lãnh tụ có những cống hiến to lớn cho cách mạng Việt Nam, cách mạng Ðông Dương và Ðảng ta ngay trong buổi đầu đầy khó khăn khi cách mạng mới khởi động và khi Ðảng ta còn trứng nước, lại đồng thời là dịp để chúng ta càng thấy sự vĩ đại của Lãnh tụ Hồ Chí Minh - người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, của Trần Phú và nhiều nhà lãnh đạo của Ðảng ta về sau.
...............................
1, 2, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13. Ðảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Ðảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3, 4. Ði-a-côp, Xớc-kin, Quốc tế Cộng sản với vấn đề dân tộc và thuộc địa, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1960.