Nhọc nhằn mưu sinh ở bãi rác Hoàng Cầu

NDĐT - Hơn 100 người sống và làm việc trong xóm ve chai nằm sâu trong ngõ 34 phố Hoàng Cẩu (phường Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội) đều là những nông dân đến từ Nam Định, hầu hết là người huyện Xuân Trường. Mỗi người đều có một hoàn cảnh khác nhau, nhưng cái đói, cái nghèo đã đưa họ đến với nghề thu lượm phế thải đầy nhọc nhằn, cơ cực.

Người bỏ cả ruộng vườn, con cái cho cha mẹ già ở quê trông, người tranh thủ những lúc nông nhàn, nhặt nhạnh cho thêm đồng ra, đồng vào. Nhặt rác chính là để nuôi sống bản thân và cả gia đình họ…

Trần gian có một thứ nghề…

Giữa trưa nắng, cô Nguyễn Thị Mơ (54 tuổi) cặm cụi đạp chiếc xe đạp cũ, đằng sau ì ạch chở đống phế liệu nặng nề, cái làn, cái cân... Trong giỏ xe của chị đựng thức ăn là vài miếng đậu, mấy con cá khô và mớ rau muống, dáng vẻ liêu xiêu, mệt mỏi. Chồng mất sớm, mình cô bươn chải hết nghề này đến nghề khác nuôi ba con ăn học, nay hai người đã lập gia đình, con gái út vẫn đang học ĐH Sư phạm Hà Nội. Cô Mơ làm nghề thu mua ve chai đã gần chục năm nay, cũng đã thấm đủ cái cơ cực, vất vả của nghề. Công việc của cô bắt đầu từ 5 giờ sáng đến 10 giờ trưa trở về nấu cơm ăn, nghỉ ngơi đến 3 giờ chiều lại dắt xe đi đến 12 giờ đêm mới về.

“Ban ngày tôi đi loanh quanh, ai gọi bán ve chai đồng nát thì mua, thậm chí kêu làm việc gì cũng làm, miễn là có tiền”, cô Mơ tâm sự.

Cô Mơ cùng chiếc xe đạp cũ của mình đã rong ruổi không biết bao nhiêu con phố, ngõ nhỏ ở Hà Nội này, chẳng thể tính nổi một ngày đi bao nhiêu cây số, chỉ biết là chở rất nhiều đồng nát, có ngày lên đến cả trăm kg, xe cứ đầy lại chở về khu trọ (cũng là nơi thu mua đồng nát) để bán luôn. Đồng nát được bán theo cân, sắt thì 7 nghìn đồng/kg, nhựa thì 6 nghìn đồng/kg, giấy báo từ 4 đến 5 nghìn đồng/kg.

“Trung bình mỗi ngày lãi khoảng 50 đến 100 nghìn đồng, có ngày lãi cao thì 200 nghìn, có ngày lại không lãi đồng nào, thậm chí còn lỗ vì mình tính nhầm tiền. Cái nghề đồng nát nó không chắc, nhưng tính ra vẫn còn hơn cày ruộng ở quê. Mỗi tháng tôi cũng đủ tiền gửi cho con gái ăn học, dư ra một ít về cho ông bà còn ở quê, dành dụm tiền làm vốn phòng thân. Bao giờ con bé ra trường, kiếm được việc thì mình bỏ nghề. Bây giờ dù vất vả đến mấy cũng phải cố gắng để lo cho nó”, cô Mơ tâm sự.

Ở xóm ve chai bãi rác Hoàng Cầu có hơn 100 người đang sinh sống bằng nghề bán ve chai, họ tụ họp về đây, sống trong những khu trọ tồi tàn do những người chủ thu mua đồng nát dựng lên.

Vào thăm nhà ông Nguyễn Văn Ất, chủ khu trọ thuộc diện “rộng rãi” và “quy mô” nhất ở đây, mới thấm thía được sự khó khăn, vất vả, nhọc nhằn của những người làm nghề đồng nát. Hơn 60 người lao động sinh sống và làm việc trong không gian ẩm thấp, tối tăm, mùi hôi thối của phế thải bốc lên nồng nặc, ánh sáng hắt qua những lỗ hổng của mái tôn rỉ sét, cả ngày phải bật điện, mùa hè thì oi bức đến ngột ngạt, mùa đông thì cái lạnh thấu xương.

Cái lán bằng gỗ vụn vặt, chắp vá lại thành hai tầng dựng trên nền đất rộng hơn 100 mét vuông, tầng trên chia thành những phòng nhỏ, tầng dưới để để xe và chứa đồng nát sắt vụn. Mỗi phòng từ 2-5 người ở, rộng khoảng chừng 5 mét vuông và có giá thuê 500 nghìn đồng/tháng. Cô Vũ Thu Hường (33 tuổi) đon đả mời chúng tôi vào thăm căn phòng của hai vợ chồng. Góc sinh hoạt là chiếc phản đủ rộng để chải tấm chiếu cói, hai cái gối có vỏ bọc bằng vải thun và chiếc chăn sờn cũ. Nồi niêu, bát đĩa được xếp gọn vào một góc. Chếch lên một chút là cái mắc treo vài bộ quần áo.

“Ăn uống tằn tiện như vậy mà một tháng cũng chỉ gửi về cho ông bà tầm 3 triệu để nuôi hai đứa trẻ ở nhà. Cả tháng tôi cũng chỉ về thăm con được một lần. Mỗi lần đi là một lần ứa nước mắt vì thương con. Đứa lớn học lớp 7 thì còn hiểu chuyện nên chỉ đứng khóc, đứa nhỏ năm nay mới vào lớp 2, hễ cứ thấy bố mẹ chuẩn bị đi là lại ôm chân vùng vằng, nằm khóc nhất quyết không cho đi”.

Anh Nghiêm Xuân Chỉnh, sinh năm 1987 nhưng khuôn mặt già dặn và chai sạn như một người đàn ông ngoài 40. Anh lên Hà Nội làm nghề đồng nát đã hơn ba năm, vợ và đứa con hơn hai tháng tuổi ở quê. Vừa đếm từng lon bia, anh vừa liến thoắng kể: “Các ấy xem này, một vỏ lon như này tớ chỉ bán được 300 đồng, cái hộp bánh kia thì 100, cả cái đống to tướng này tí nữa đem bán cũng chả được 100 nghìn ấy chứ. Thế mà tớ mất toi cả buổi sáng”.

“Bỏ nghề lấy gì mà ăn”, họ vẫn phải bám nghề dù nhiều cơ cực, tủi hổ. Cô Mơ kể chuyện mỗi tháng đứa con gái đến xin tiền đóng học một lần, chỉ cho nó ở chơi với mẹ một lúc rồi về chứ sợ con không quen, “ốm sinh bệnh”.

“Đi bán đồng nát, lắm lúc mình còn phải đi bới đống rác, nhặt nhạnh từng cái vỏ chai, lon bia một. Bị khinh rẻ, thóa mạ, bị chửi bới cũng phải cắn răng mà chịu. Cũng chỉ vì miếng cơm manh áo mà khổ thế đấy. Vừa mới đây thôi, lúc đi bới rác, có người vứt toẹt túi tro có phân mèo vào mặt, may mà tránh kịp. Cố làm lụng để sau này đời con cái không khổ như cha mẹ chúng nó”. Cô Hường ngậm ngùi chia sẻ.

Đâu đó những niềm vui

Làm nghề đồng nát, đồng nghĩa với việc họ phải chấp nhận cuộc sống thiếu thốn, chật chội, vất vả. Không chỉ thu mua, nhặt nhạnh đồng nát mà còn phải làm rất nhiều việc, miễn là có tiền, từ dọn dẹp nhà cửa, lau chùi đồ đạc, khuân chở hàng hóa, vật liệu xây dựng. Khi trở về phòng trọ, họ phải sống trong những căn phòng tù túng, chật chội, thiếu ánh sáng và thiếu cả những phương tiện cần thiết cho cuộc sống.

Tuy nhiên, những khó khăn ấy đều được 100% những người bán đồng nát chấp nhận chịu đựng và chung sống cùng những khó khăn ấy vì họ còn có cha mẹ già và đàn con nheo nhóc luôn mong ngóng họ về, xuất hiện trong bữa cơm ngày Tết, những ngày giỗ chạp và hơn cả là đủ tiền để chăm lo cho những người họ thương yêu.

Trong cuộc sống bộn bề khó khăn, họ vẫn tìm thấy những niềm vui chung quanh để tự an ủi và động viên tinh thần. Tôi còn nhớ ánh mắt đầy vẻ tự hào của cô Mơ khi khoe đứa con gái kỳ nào cũng được học bổng, thỉnh thoảng cũng đi dạy thêm để đỡ đần cho mẹ, là nụ cười đầy vẻ hạnh phúc của cô Hường khi “mỗi ngày làm việc mệt nhọc, vợ chồng lại quây quần bên mâm cơm, “kể toàn chuyện vui ở tận đâu đâu”, là niềm hãnh diện của anh Chỉnh khi khoe đứa con gái hai tháng tuổi “xinh gái lắm nhé!”…

Cái chữ “tình người, tình làng” cũng nguyên vẹn ở những xóm ve chai như thế này. Chất quê mộc mạc, chân chất vẫn níu giữ ở con người họ. Đó là sự quan tâm đến nhau mỗi khi hoạn nạn, ốm đau, là những câu bông đùa để xóa tan bao mệt nhọc sau một ngày rong ruổi trên khắp các con phố, ngõ nhỏ. Những vật dụng tái chế lại từ đồng nát, những cuốn sách, tập vở, quyển truyện được họ giữ lại và hết sức nâng niu để “mang về làm quà cho lũ trẻ ở nhà”. Nghị lực sống của họ thật đáng trân trọng.

Trong cuộc sống xô bồ, ồn ào, bận rộn, đôi khi ta vẫn thảng thốt nhận ra cái bình dị trong muôn vàn cái vất vả, khó khăn. Tiếng rao “Ai đồng nát đê! Ai ve chai, đồng nát nào!” vẫn vang lên, nối dài theo năm tháng...

Chén nước chè và những câu chuyện cuối ngày kết thúc ngày làm việc mệt mỏi.

Có thể bạn quan tâm