Búng - một công đoạn làm sạch bã cho cọng lác sau khi phơi khô.
Nghề trồng lác gắn bó với người dân miệt cù lao sông nước Vũng Liêm (Vĩnh Long) từ thời kỳ Pháp thuộc, xuất phát ở cù lao Năm Thôn, nay là cù lao Thanh Bình (xã Thanh Bình), sau đó được mở rộng ra nhiều cánh đồng các địa phương lân cận. Cây lác thuộc họ cói, có đến mấy nghìn loài, phần lớn là cây cỏ hoang dại, mọc khắp nơi từ đầm lầy tới đồng ruộng. Chỉ có một vài loài như lác bông trắng, lác ron được dùng làm nguyên liệu dệt chiếu hoặc se lõi đan hàng thủ công mỹ nghệ. Cây lác dễ trồng, không kén đất, có thể sống ở những vùng trồng lúa, hoa màu kém hiệu quả và không chủ động về nguồn nước. Chỉ trồng một lần, bón phân đúng định kỳ thì có thể thu hoạch liên tiếp bảy đến tám năm, thậm chí mười năm. Ở vùng thường xuyên bị xâm nhập mặn như huyện Vũng Liêm, cây lác là lựa chọn phù hợp, là nguồn sống chủ lực của người dân. Bà con quả quyết, nếu nước mặn khoảng 3‰ trở lại, thì cây lác vẫn phát triển tốt và vụ mùa năm đó sẽ trúng hơn so với bình thường.
Những ngày này, đi dọc con đường từ thị trấn Vũng Liêm xuyên qua các xã Trung Thành Tây, Trung Thành Đông, đâu đâu cũng thấy cảnh thu hoạch lác. Chị Nguyễn Thị Thanh Thoa, ở xã Trung Thành Đông cho biết, từ thời điểm trồng đến khi thu hoạch mất khoảng bốn tháng rưỡi, lúc đó cây lác cao từ một mét tám trở lên. “Nhà mình trồng năm công lác, mỗi năm thu hoạch được hai mùa rưỡi. Hồi trước, đất này trồng lúa nhưng thường xuyên bị xâm nhập mặn, thấy bà con trồng lác, mình cũng chuyển đổi theo. Mỗi công lác cho năng suất khoảng 1,6 đến 2 tấn lác khô loại 1 và vài trăm ký lác loại 2, loại 3. Giá lác năm nay khá cao, hiện 14 nghìn đồng/kg lác loại 1. Tính hết chi phí cũng lời hơn chục triệu đồng/công”, chị Thoa phấn khởi nói.
Hai bên tỉnh lộ nối từ quốc lộ 53 về xã Trung Thành Đông là những cánh đồng lác xanh rì, đong đưa trong nắng mới. Quang cảnh người dân lao động vô cùng tất bật, hối hả. Anh Tín, chồng chị Thoa, đảm đương công đoạn phác lác, phần việc nặng nhọc thường dành cho cánh đàn ông. Anh chia sẻ: “Công việc này đòi hỏi người làm phải có sức khỏe, kinh nghiệm phác đều tay, thì cây lác mới được thu hoạch tốt. Một tay cầm chiếc phảng to, dài vung lên cao, tay còn lại cầm cù nèo để kéo lác về một phía. Mỗi nhát chém cần nhiều lực và dứt khoát, cho cọng lác đứt ngọt. Gốc lác còn lại chỉ độ dưới một tấc là đạt yêu cầu. Phụ nữ thì làm công việc nhẹ nhàng hơn là giũ, thu gom và chẻ lác, phơi…”. Ông Huỳnh Văn Vũ, Chủ tịch UBND xã Trung Thành Đông nhấn mạnh, cây lác là cây xóa đói, giảm nghèo của địa phương. Mỗi năm diện tích trồng lác hai vụ ở xã khoảng 420 ha, cao nhất huyện Vũng Liêm. Cũng nhờ chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ lúa sang cây lác cho hiệu quả kinh tế cao, đời sống người dân trở nên khấm khá.
Cánh đồng lác là nơi lưu giữ ký ức tuổi thơ, với cánh diều ước mơ trong những buổi hoàng hôn.
Thu hoạch lác cần nhiều nhân công, một công lác có đến cả chục người làm, mỗi người một công đoạn. Cho nên, người trồng lác miệt cù lao Vũng Liêm thường mần vần công (đổi công) cho nhau trong mùa vụ. Chuyện mần vần công vốn là nét văn hóa truyền thống của người nông dân Nam Bộ thời khẩn hoang. Anh Nguyễn Phương Bằng, nhà cùng xóm với vợ chồng anh Tín cho biết: Cả xóm trồng lác, nên đâu có thuê mướn được ai. Cho nên, hôm nay anh Tín thu hoạch thì mình tới tiếp. Xong lác của anh Tín, tới đất nhà mình thì anh Tín qua trả công. Nếu ngày mai mà ảnh kẹt công chuyện hay có đám tiệc gì thì để mùa sau trả công cũng được”. Anh Hiệp vừa chẻ lác, vừa tiếp lời anh Bằng: “Nhờ cây lác, đời sống bà con quê mình khấm khá lên, cái tình chòm xóm khăng khít hơn. Vô mùa thu hoạch rộ thấy vui dữ lắm, bà con tất bật, miệng nói cười, như đi hội vậy”. Người tới mần vần công chỉ bỏ sức tiếp giúp, còn lại cơm nước, bánh trái, cà-phê được chủ nhà chuẩn bị thết đãi hết thảy. Nhưng mần phải nhiệt tình, chứ không ai tính toán thiệt hơn.
Từ hiệu quả kinh tế mà cây lác mang lại, những năm gần đây, lác trở thành cây trồng chủ lực của huyện Vũng Liêm. Có thời điểm, diện tích lên tới gần 400 ha/vụ mùa, tập trung tại các xã cù lao như Thanh Bình, Quới Thiện và vùng đất ven sông Trung Thành Tây, Trung Thành Đông. Trong đó, nhiều nhất là xã Trung Thành Đông với diện tích hơn 210 ha, trở thành nơi có cánh đồng lác lớn nhất miệt đồng bằng Nam Bộ. Không chỉ cho thu nhập cao gấp đôi, gấp ba trồng lúa, cây lác còn tạo công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động nhàn rỗi từ làng nghề dệt chiếu, se lõi lác và đan hàng thủ công mỹ nghệ. Cây lác sau khi thu hoạch được phơi hai, ba nắng, phân ra thành ba loại: loại 1 có chiều dài từ 1,8m trở lên, loại hai từ 1,6 đến dưới 1,8m, còn lại là loại 3. Lác loại 1 được cung ứng làm nguyên liệu dệt chiếu, loại 2 và loại 3 được dùng để se lõi, đan hàng thủ công mỹ nghệ. Bên cạnh việc cung ứng cho làng nghề dệt chiếu tại địa phương, lác Vũng Liêm còn tỏa đi khắp các làng nghề ở miền tây, trong đó nổi tiếng là làng chiếu Định Yên, tỉnh Đồng Tháp.
Không chỉ là nguồn sống của người dân miệt cù lao, cánh đồng lác quê hương còn là nơi cất giữ ký ức tuổi thơ của lũ trẻ quê nghèo. Bao thế hệ đã đi qua, lớn lên nơi sông nước cù lao, dù đến mọi miền đất xa xôi, vẫn thương nhớ, canh cánh ngày về, được thả mình trong mùa thu hoạch lác, rộ tiếng cười chất phác của người nông dân nơi đồng đất Vũng Liêm. Bởi đã quá nặng tình, nên dù có lúc giá cả bấp bênh, người dân vẫn gắn bó với cây lác quê hương mà sống. Từ loài cây hoang dại, bén duyên bén rễ với mảnh đất quê nghèo, cây lác đã đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân một nắng hai sương, trở thành chất keo gắn kết tình làng nghĩa xóm.