Có sanh ắt có tử
Vạn cổ ai thoát khỏi quy luật này.
Dầu biết lá vàng treo trước gió
Ngỡ còn lâu lá vẫn chưa bay
Bác đã đi vào cõi bất tử
Nào phải đâu chỉ vang bóng một thời!
Câu thơ trên tôi đã điện cho nhà văn Nguyễn Ðình Thi, Tổng Thư ký Hội Nhà văn chia buồn cùng gia đình và Hội khi nhà văn Nguyễn Tuân mất. Tôi nhớ lại những ngày đầu giải phóng bác Nguyễn Tuân có nhiều lần vào nam, nhưng bác chưa đi được đến Cà Mau - nơi bác đã từng "rày ước mai ao...". Mãi đến mùa thu 1976, cây nhạc ngựa trước ban-công nhà tôi sau đêm trút lá vàng, cành nảy lộc xanh li ti báo hiệu ngày mưa ngâu bác nhờ tôi tổ chức một chuyến đi Cà Mau. Biết tôi lúc này đang là phóng viên đặc biệt của Ðài Truyền hình TP Hồ Chí Minh, có thể đi đó đi đây - và theo Tô Hoài, Nguyễn Văn Bổng là tôi thường "làm chủ tập thể" nên bác tin là có thể nhờ vả được.
Và trong "Bức thư Cà Mau" gửi Anh Ðức, năm xưa bác đã từng viết: "Cái ngày tôi vào thăm Cà Mau đang nhích lại gần chúng ta đó!".
Biết bác mong mỏi, nấu nung từ ngày còn khói lửa, đạn bom ước vọng về đến nơi tận cùng của đất Chín Rồng, nơi bình sa bùn cát phẳng lỳ: "Bao giờ cút hết giặc Mỹ tôi vô trong các anh, các anh sẽ cho tôi no nê nhiều bữa sông vàm, kênh rạch...". Và theo lời cô Lê công tác ở Công ty Du lịch Hà Nội gặp bác từ năm 1964 đã từng nhắc hỏi: "Hôm nào bắc - nam bình thường quan hệ thì bác vô đâu trước hết? Thí dụ tại sân bay Gia Lâm, buổi sáng thanh bình nào đó có hai chiếc tàu bay đưa các nhà văn ta đi "thực tế" miền nam. Một chiếc đi Huế, đi Sài Gòn, một chiếc đi Bạc Liêu, đi mũi Cà Mau. Vậy bác sẽ vô thăm đâu trước hết? Nguyễn Tuân đã gọn gàng trả lời: "Tôi xin đi chiếc sau".
Năm 1976, lúc bấy giờ bác đã 66 tuổi rồi, quỹ thời gian đến "cổ lai hy" của bác còn quá ngắn, nếu không tổ chức cho bác đi được thì sẽ ân hận sau này. Thế là tôi xếp các công việc lại, cùng một anh bạn nhiếp ảnh kiêm lái xe - anh Duy Ðức, một bạn quay phim Thái Thiện Tài đưa bác về vùng đất "chưa khô bùn vạn dặm" ấy!
Trong ba-lô như hành trang của nhà thám hiểm Nam Cực có đầy đủ lương khô, đèn cầy, đèn pin, dao kéo, kể cả khô cá chích và nước mắm khô nữa, bác Nguyễn lại lên đường.
Những tưởng đi "thực tế Cà Mau" lần này bác ở lâu, chúng tôi chuẩn bị xăng xe, chăn màn đi cả tuần lễ. Ai ngờ xuống đến nơi bác chỉ ngồi bên rừng đước với cái gió, cái nắng "rừng thu rỗ biếc xen hồng" và cả đêm trăng già mênh mông ngập tràn sông biển. Và sáng ra bác dậy thật sớm, cầm chén rượu đón bình minh trên biển Năm Căn. Mặt trời rực rỡ của miền nam rọi những tia hồng đầu tiên chiếu tràn trên ly rượu trong vắt bồng mắt thỏ nổi tăm của bác. Bác đưa ly hứng lấy những sợi nắng như tơ vàng ấy. Và như người có đạo - đạo thiên nhiên - buổi chiều bác lại chờ hoàng hôn về trên biển bác chào mặt trời đi ngủ trên làn nước biếc tím xanh. Bác trở về, vui nói: Không có nơi nào trên đất nước ta như nơi đây. Mặt trời mọc trên biển và cũng lặn sau biển, bốn bên, ba bề đều biển cả mênh mông.
Bác mở cho chúng tôi xem tấm bản đồ của Bộ Tổng tham mưu trong đó đánh dấu chì xanh đỏ theo lời hướng dẫn của hai nhà văn già Văn Ngọc và Khương Minh Ngọc, Nam Bộ tập kết. Trong tay bác với cuốn sách Ðất rừng phương Nam của Ðoàn Giỏi và tấm địa đồ khoanh tròn vùng Cái Nước, Cái Tàu, Rạch Rán, Rạch Rô, Rạch Cây Khô, Rạch Ðước, rồi Gành Hào, Bảy Háp, Vàm Ðình, Sông Ðốc, Xóm Ông Trang, mũi Rạch Ràu, v.v...
Những cái tên nôm na giản dị, thuần phác và rất đỗi anh hùng trong tiểu thuyết Rừng U Minh của Nguyễn Văn Bổng.
Tư liệu thì bác có đầy cuốn sổ tay chuẩn bị ở Hà Nội, nhưng theo bác "quan sát thì không có thể ai quan sát thay mình". Bác lại ghi ghi chép chép vào cuốn sổ tay những gì lượm lặt dọc đường và hỏi han các "nhân vật". Bác rất thích thú hỏi chuyện một đôi vợ chồng trẻ ở thị xã Cà Mau trong một quán nước ven sông. Người chồng họ Trịnh, cô vợ trẻ mặc áo bà ba mà mang họ Nguyễn, thật là một chuyện tình cờ. Chúng tôi ngồi uống rượu suông, bác Nguyễn bắt chuyện đôi vợ chồng trẻ và mời rượu. Cô gái hồn nhiên chào đáp lễ và tham gia cùng chồng. Anh chồng là nhà giáo, cao hứng vì nghe tin có nhà văn lão thành Nguyễn Tuân từ Hà Nội vào, nhà văn của Vang bóng một thời, anh quay sang phía vợ mở cây ghim ở túi áo bà ba đen, chích vài giọt máu đầu ngón tay trỏ nhỏ vào ly rượu bác Nguyễn. Mọi việc chỉ làm trong chớp nhoáng. Anh đứng dậy trịnh trọng nâng ly và vợ chồng xin được uống với lão văn sĩ...
Quá bất ngờ Nguyễn Tuân cũng đứng dậy hướng về phía vợ chồng anh giáo trẻ và nói: "Trịnh Nguyễn - ý anh nói vợ chồng có họ Trịnh Nguyễn phân tranh hai trăm năm. Mỹ ngụy chia cắt ba mươi năm, giờ trăm họ chung sống một dải sơn hà. Xin chúc vợ chồng vạn hạnh với ly rượu vườn đào cửu Lưu, Quan, Trưởng xưa...".
Câu chuyện ly rượu này, và ly rượu của anh nông dân Ba Xồi - có cả Mai Văn Tạo chứng kiến - Anh Ba Xồi cùng quê của Nguyễn Quang Sáng cũng có vài giọt máu đào nghĩa tình Bắc Nam sau ba mươi năm thương nhớ... Thế mà sau này có người thêu dệt và xuyên tạc. Có lần bác Nguyễn nói nhỏ với tôi là họ ác ý phản ánh lên trên là "Nguyễn Tuân uống máu với tề ngụy".
Hôm nay kể lại chuyện này cũng là minh oan cho hương hồn bác nơi chín suối. Xin nâng ly chào nhà văn lớn cuồng ngông và giàu lòng yêu quê hương đất nước. Những Tình rừng, Tờ hoa, Phở, Cốm, Giò lụa... có tội tình gì đâu mà có một dạo bị xuyên tạc.
Thế là bác đã có "thực tế" Cà Mau. Sáng hôm sau bác bảo tôi về sớm. Vì trục trặc giấy tờ với lại bác đã nhìn tận mắt rừng đước, biển cả mênh mông: trước mắt là biển, sau lưng là biển. Cà Mau như hòn đảo vây quanh là sông biển, ngàn trùng vỗ sóng đêm ngày.
Những lần sau này tôi lại tổ chức cho bác đi vùng Long Châu Hà (Long Xuyên - Châu Ðốc - Hà Tiên), vùng sông Tiền, sông Hậu, đâu đâu bác cũng yêu, cũng thích tấm lòng hồn hậu của rừng biển phương Nam. Nhưng bác chỉ thích nhất là đi được Cà Mau và hẹn đến năm 1988 đi một chuyến trối già nữa...
Những tháng ngày ở Thủ đô, những năm tập kết ra bắc, hễ vào thu gió heo may hoặc ngày Tết, ngày lễ là chúng tôi, Diệp Minh Châu, Phạm Tường Hạnh, Mai Văn Tạo... thường đến bác nâng cốc. Và bác cũng không quên "khai thác" chúng tôi để tích lũy về vùng đất phương Nam - vùng đất Chín khúc sông Rồng này. Hồi tôi còn ở báo Thống Nhất, bác thường đến xin hình, xin tư liệu về Cà Mau. Những trang báo Thống Nhất cắt ra cất đi đã thành một pho tài liệu về rừng, về biển, về đất, về người, về sử địa vùng đất này. Có những tin về chiến sự bác bỏ vào từng phong bì riêng. Bác không chỉ lo cho anh em mà còn chăm sóc cho bao lứa viết văn trẻ của miền nam, bác rất quý những tài thơ, tài họa, tài văn, tài nhạc trẻ của vùng Lục Tỉnh. Và bác có rất nhiều bạn quý của Phương Nam... như Trịnh Công Sơn, Nguyễn Trung, Nguyễn Sáng, Diệp Minh Châu.
Chúng tôi, anh chị em viết văn, làm báo miền nam xem bác là bậc tiền bối, cao niên, nhiều kinh nghiệm và lịch lãm sành đời. Mỗi lần theo chân bác Nguyễn Tuân đi thực tế là mỗi lần học tập cách ăn, cách nói, cách gói, cách mở của bác. Bác quan sát, hỏi han, tìm hiểu cặn kẽ mọi việc: có khi trằn trọc, băn khoăn, day dứt chưa tìm ra từ ngữ tương xứng, chính xác... Bác như gã si tình, tương tư với chữ, với nghĩa và từng sự vật.
Những trang tùy bút về Cà Mau của bác từ khi ở Hà Nội bác chưa đến Cà Mau vẫn lấp lánh và ngồn ngộn vốn sống. Tôi có gặp nhà văn Nga Marian Tkachev, anh cho biết: Sau Erenbua thì tùy bút của Nguyễn Tuân là có tầm cỡ thế giới và nhà Marian chỉ treo ảnh Nguyễn Tuân và Erenbua mà thôi. Bác là cành đước đẹp, cây sú già cổ thụ, rễ gốc xù xì xòe ra bám chặt lấy bùn đất, reo với gió lộng biển khơi và đứng cao suốt bảy mươi bảy mùa thu thay lá. Mới đó đã 20 năm Ngày bác đi xa. Bác không còn quỹ thời gian để đi một chuyến trối già nữa rồi - nếu như có linh hồn - chắc rằng hồn thiêng của bác về lãng đãng nơi góc rừng sông nước Cửu Long, hay một bến bờ vùng rừng mặn Năm Căn để thỏa tấm lòng xê dịch lữ thứ của bác và xem như bác đã về lại sông nước Cà Mau rồi đó!