Người trí thức tiêu biểu của khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Khi bàn về lòng yêu nước của nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Ðó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước". Một trong những trường hợp tiêu biểu về lòng yêu nước đó là Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, một trí thức trong gia đình Hoàng tộc của Triều Nguyễn, xuất phát từ lòng yêu nước nồng nàn, đã đến với chủ nghĩa anh hùng cách mạng, trở thành người cộng sản trung kiên.

Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ sinh ngày 19-1-1904, trong một gia đình Hoàng tộc và quan lại ở làng Vân Dương, xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên (nay là thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế). Thân phụ của Giáo sư là cụ Tôn Thất Thế Linh (1876 - 1922). Cụ Thế Linh thuộc hệ nhất và hậu duệ thứ 3 của Vua Gia Long, làm quan trong Triều đình nhà Nguyễn với chức Chủ sự Bộ Lễ. Thừa hưởng truyền thống hiếu học của gia tộc và tư chất thông minh nên mặc dù trong hoàn cảnh cha mất sớm, lúc Giáo sư mới tròn 9 tuổi, một mình mẹ là bà Nguyễn Ðình Thị Tiếp phải nuôi dạy 9 người con, nhưng Giáo sư đã kiên trì phấn đấu, miệt mài tự học là chính và trở thành một học giả, nhà trí thức uyên thâm cả Tây học lẫn Nho học.

Với bầu nhiệt huyết của một trí thức trẻ sau thành công của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, cùng với uy tín và hiệu quả hoạt động của mình, Giáo sư được bầu làm Thư ký của Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên - Huế ngay vào ngày thành lập (18-9-1945), do Giáo sư Nguyễn Lân làm Chủ tịch, là tổ chức tiền thân của Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Thừa Thiên - Huế hiện nay. Ðồng thời, Giáo sư trực tiếp phụ trách tờ Ðại Chúng - Cơ quan ngôn luận của Liên đoàn.

Cuối năm 1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta diễn ra khốc liệt trên các chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ, khi mặt trận Huế vỡ (đầu năm 1947) Giáo sư ở lại hoạt động bí mật trong tổ chức Trí vận do Thành ủy Huế tổ chức và trực tiếp chỉ đạo. Cũng trong thời gian này, Giáo sư gia nhập vào hàng ngũ của những người cộng sản. Trong cương vị là giáo sư giảng dạy tại Trường Khải Ðịnh (Quốc học Huế), những bài giảng trong giờ lên lớp hoặc bằng những tài liệu hợp pháp, tiến bộ mà Giáo sư có được thường cung cấp cho học sinh đã góp phần mạnh mẽ thức tỉnh tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, cách mạng trong giới học sinh, sinh viên.

Năm 1949, Giáo sư cùng với một nhóm các nhà giáo, văn nghệ sĩ tiến bộ sáng lập Tạp chí Tiến Hóa, nơi tập trung tiếng nói đấu tranh về văn hóa, chính trị của giới trí thức miền trung. Nhận thấy sự bất lợi của Tạp chí Tiến Hóa đối với chính sách thực dân, đô hộ của mình, thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa, Giáo sư cho xuất bản Tập văn Ngày Mai, cơ quan ngôn luận của phong trào đấu tranh đòi hòa bình, thực hiện hiệp định Giơ-ne-vơ tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước của giới trí thức miền trung. Cuối năm 1954, thực dân Pháp và chính quyền Ngô Ðình Diệm dùng bọn côn đồ hành hung Giáo sư và những người chủ chốt trong Ban biên tập, đập phá tòa soạn, sau đó chúng bắt giam, kết án Giáo sư 1 năm tù.

Năm 1955, sau khi ra tù, Giáo sư vào Sài Gòn dạy học tại các trường Marie Curie, Ðại học Vạn Hạnh và Ðại học Văn khoa. Ở đây, dưới hình thức hoạt động hợp pháp, Giáo sư tiếp tục truyền bá chủ trương, đường lối cách mạng của Ðảng và Bác Hồ, làm thức tỉnh tinh thần dấn thân vì sự nghiệp độc lập dân tộc, thống nhất đất nước trong giới trí thức, sinh viên, học sinh. Năm 1962, Giáo sư bị địch bắt giam cho đến khi Ngô Ðình Diệm bị lật đổ mới được thả ra.

Tháng 1-1964, Giáo sư được tham dự Ðại hội lần thứ II Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và được cử làm Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam với bí danh là Dương Kỳ Nam. Sau Ðại hội Mặt trận, Giáo sư trở lại Sài Gòn, tham gia lãnh đạo Phong trào Dân tộc tự quyết Việt Nam với cương vị Ủy viên Ban Chấp hành và làm Tổng Thư ký Ủy ban Vận động hòa bình Việt Nam. Năm 1965, Phong trào Dân tộc tự quyết Việt Nam và Ủy ban Vận động hòa bình Việt Nam bị chính quyền Sài Gòn ngăn cấm quyết liệt. Chúng đã cách chức 300 công chức trong bộ máy của chính quyền tham gia Phong trào và bắt giữ gần 100 người, trong đó có bác sĩ Phạm Văn Huyến, nhà báo Phi Bằng và Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ. Ngày 19-3-1965, chính quyền Sài Gòn tổ chức "tống xuất" Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ cùng với hai nhà trí thức tiêu biểu khác đấu tranh cho hòa bình của dân tộc, thống nhất Tổ quốc ra miền bắc, qua cầu Hiền Lương là bác sĩ Phạm Văn Huyến và nhà báo Phi Bằng.

Sau ngày miền nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, tại Ðại hội Dân tộc thống nhất Việt Nam thống nhất ba tổ chức Mặt trận: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (miền bắc); Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1977), Giáo sư được cử làm Ủy viên Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và được phân công phụ trách công tác nhân sĩ, trí thức các tỉnh phía nam. Trong chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc (tháng 2-1979), Giáo sư được phân công công tác tại Ban Biên giới Chính phủ để nghiên cứu, đề xuất với Ðảng và Nhà nước những biện pháp đấu tranh bảo vệ biên cương của Tổ quốc. Thời gian này, Giáo sư đã có nhiều công trình, bài viết sắc sảo, chứng cứ khoa học, lịch sử khẳng định chủ quyền biên giới, chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Ngày 20-10-1987, sau một cơn bệnh nặng, Giáo sư đã từ trần tại thành phố Hồ Chí Minh, để lại một hình ảnh tiêu biểu của người thầy giáo, nhà báo, người trí thức, người cán bộ cách mạng và người đảng viên Cộng sản với đầy đủ các khí chất của sự tiết tháo, mẫu mực, trí tuệ, chân thành, kiên trung với lý tưởng mình đã lựa chọn như Ðiếu văn đọc tại Lễ tang của Giáo sư đã khẳng định: "... Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, nhà văn, nhà giáo, nhà hoạt động cách mạng sôi nổi và trong sáng, người đảng viên cộng sản một lòng một dạ trung trinh với Ðảng, với Tổ quốc, người đồng chí, người bạn chiến đấu vô cùng thân thiết của chúng ta...".

Ghi nhận công lao to lớn của Giáo sư, góp phần vào thành công của cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Ðảng và Nhà nước đã trao tặng và truy tặng các phần thưởng cao quý: Huân chương Ðộc lập hạng nhì, Huân chương Kháng chiến hạng nhất và Huân chương Ðại đoàn kết dân tộc.

Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, ôn lại những chặng đường hoạt động cách mạng của một trí thức yêu nước, một người đảng viên cộng sản xuất thân trong gia đình Hoàng tộc của Triều Nguyễn, chúng ta càng nhận chân rõ vai trò của người trí thức yêu nước trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở bất kỳ lĩnh vực nào của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thân yêu hiện nay.

TS LÊ BÁ TRÌNH

Phó Chủ tịch Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam

Có thể bạn quan tâm