Con suối So Lo kia, trườn dài giữa hai chân dốc như con trăn lim dim ngủ đông, nhưng hễ có trận mưa rào là nó bỗng trỗi mình vật vã phi nước đại, cuốn theo cả bè mảng, lồng cá, cả lợn, gà, ngan, vịt ra sông Ðà.
Trời cũng cho bản Sạn nhiều thức ăn ở rừng và thức ăn ở suối. Ðàn bà, trẻ thơ bản Sạn giỏi trèo cây, hái quả, thạo hái măng rừng, rau rừng.
Nhắc đến suối So Lo, người Mường Mùn, Mường Xang ai chẳng nhớ kẹp cá trắng nướng thơm đậm đà, nhớ canh rêu đá vừa ngọt vừa mát, nhớ ốc suối ngon béo không đâu bằng. Ðàn ông bản Sạn với cung, tên, ná nỏ, súng kíp, cạm bẫy, lưới chài... có thể lôi cổ con chuột núi, con don, con dím ra khỏi hang.
Nhưng, từ khi bản Sạn từ vài nóc nhà cách đây ba chục năm, đã sinh sôi nảy nở như tổ ong khoái thì cái ăn từ thiên nhiên cũng cạn kiệt dần. Cánh rừng già ngày ấy là kho tàng vô tận của mộc nhĩ, nấm hương, của gà lôi, bìm bịp đã bị con người đốt trọc. Hàng nghìn héc-ta rừng, đồi nọ gối đồi kia vồng lên một mầu đen thui thê thảm, sau mấy vụ nương mòn xói đã trắng hếu. Tập quán sống với thiên nhiên, sống dựa thiên nhiên, giờ đây quay ngoắt lại trở mặt bội ước với chính con người.
Ðược cái, người bản Sạn không lười nhác. Cái đức tính đó như củi lửa âm ỉ chỉ chờ chực cơn gió lành thổi qua sẽ bùng lên ngọn lửa nhiệt tình làm đổi thay cả cuộc sống của họ. Cơn gió lành ấy là chính sách đối với vùng 3 (vùng đặc biệt khó khăn) của Chính phủ, là sự quan tâm của Ðảng, của Nhà nước ta với vùng đồng bào đặc biệt khó khăn.
Bản Sạn có hai tộc người: Người Mường Ao Tá và người Thái. Người Mường ở đây di chuyển từ Thanh Hóa lên, từ Mường Bi, Mường Vang, Mường Ðộng sang. Trải qua nhiều đời cùng làm ăn sinh sống và hòa huyết thông gia với nhau, đã tạo cho họ có một sắc thái riêng biệt. Nhưng dù sao, mỗi tộc người đều giữ được bản sắc cội nguồn của mình. Bởi thế, người Mường ở đây thích gọi mình là người Ao Tá.
Ở bản Sạn, cả hai tộc người đều nói được cả hai ngôn ngữ của nhau, trong sinh hoạt hằng ngày họ nói lúc tiếng Mường, khi tiếng Thái. Ngày lễ, ngày tết, đám hiếu, đám hỷ... tộc nào theo phong tục của tộc ấy, còn ngày thường, việc thường không dính đến nghi lễ thì hơn ba trăm con người bản Sạn là một gia đình. Thời kinh tế thị trường, bản Sạn có câu chuyện người nhanh dắt người chậm, người sáng chỉ giúp người chưa thông, người có của lo cho người nghèo hơn để cùng no cái bụng, ấm cái thân. Người có của ấy đổi của thành con bò, con bò đẻ ra con bê, dân bản Sạn gọi là "cặp". Người ấy cho những người không có của nuôi hộ một "cặp" gọi là nuôi "rẽ", mỗi năm đẻ ra hai bê thì chia nhau mỗi người một bê. Người nhận nuôi "rẽ" khi đã có vài "cặp" lại cho những hộ khác nhận nuôi, cứ thế cặp bò bê lan tỏa ra khắp bản Sạn. Không những thế còn sinh sôi ở những bản khác nữa.
Tôi tha thẩn trên con đường đầu bản Sạn ngắm nghía một ngôi nhà sàn lợp ngói xi-măng. Sau hồi trò chuyện, tôi được biết, hóa ra ông chính là Ðinh Xuân Mai, nguyên Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Bí thư thường trực xã Phúc Sạn, nghỉ hưu năm 2004.
Ông kể cho tôi nghe về cuộc sống gia đình ông. Ấy là cái lần chạy nước hồ sông Ðà dâng năm 1989. Nhà ông đã nghèo, con cái lại đông, vén nhà lên đỉnh đồi, gianh lợp chưa héo lá đã phải chạy vì nước lũ dâng cao. Người dân bản Phúc năm ấy di cư táo tác. Người vén dần lên đỉnh núi, nước dừng ở đâu, dựng lều tại đó. Người vào Tây Nguyên sinh cơ lập nghiệp. Người thì tìm lối sang các bản xa hồ. Trong số mười hộ di cư sang bản Sạn, có gia đình ông. Trắng tay, ông dựng cái lều che tạm, vật vã kiếm miếng ăn qua ngày. Năm 1990, Nhà nước hỗ trợ vốn trồng luồng theo dự án 747, gia đình ông được giao 6 ha đồi rừng cùng luồng giống và tiền gạo chăm sóc. Cùng thời kỳ này, gia đình ông nhận nuôi rẽ một cặp bò bê từ một hộ khác. Có thể nói, cuộc sống gia đình ông Mai có bước chuyển từ đây, từ cặp bò bê nuôi rẽ này.
Cặp bò của ông nhờ được chăn dắt tốt đã sớm "vuông tròn", năm đầu tiên ông lời một chú bê khỏe mạnh. Dăm ba năm sau, ông có đàn bò 15 con, bắt đầu tính đến chuyện cho hộ khác nuôi rẽ.
Tính đến nay, gia đình ông đã xuất cho các hộ khác nuôi rẽ đến hơn ba chục con bò bê. Nhờ đó mà nhiều hộ cũng khá lên, như gia đình ông Moòng (Bản Nọt), gia đình anh In, anh Hưng (Bản Phúc), gia đình ông Quang (Bản Sạn)... Nhiều hộ có đủ tiền mua cặp thì đến tận nhà thanh toán, mỗi cặp bò bê giá từ 7 đến 8 triệu đồng.
Ngôi nhà một trăm triệu của ông Ðinh Xuân Mai được tích cóp chủ yếu từ bò, nhưng thu nhập của gia đình ông còn hai nguồn quan trọng nữa, đó là cá và luồng. Hai nguồn này không được tiền cục như bò, nhưng tổng hợp cái bán lẻ tẻ cả năm cũng được đôi ba chục triệu. Ao cá nhà ông ở ngay mép nền nhà, nằm trong nhà mà nghe cá quẫy. Cái ao được ngăn đôi thành ao trên, ao dưới theo thế bậc thang, bởi vậy nước ra nước vào rào rào thông thoáng. Ðể có được cái ao như bây giờ, ông Mai cũng phải bao phen cực nhọc, đổ ra không ít công sức, tiền của. Có năm, cơn lũ suối So Lo đã quét trắng mấy tấn cá của ông, đã thế lúc rút đi, lũ còn để lại trong ao một núi cát sỏi như trêu tức, thách thức ông.
Quyết không nản, ông bỏ ra hai chục triệu đồng (năm 1998) xây kè đập chắn lũ bảo vệ ao. Bây giờ thì, năm ngàn con cá trắm, dầm xanh, trôi, chép, rô phi, tầng trên, tầng dưới, tầng nổi, tầng chìm... tha hồ bơi lượn vẫy vùng,chờ đến lượt được ông chủ xách ra chợ Bãi Sang hóa thành xe máy, thành quần áo, thành học phí cho con cái và thành nhiều niềm vui khác.
Nói đến Phúc Sạn là nói đến cây luồng. Luồng ngút ngàn xanh một dải lòng hồ sông Ðà, từ Gò Lào trải miên man ra Gò Mu, Suối Lốn. Cây luồng đã thật sự đem lại thế cân bằng cho cuộc sống, cuộc đời người dân vùng lòng hồ vốn chênh chao một thuở chạy nước. Gia đình ông Ðinh Xuân Mai có một nghìn gốc luồng, đã khai thác và cho thu ổn định từ hơn mười năm nay. Một nghìn gốc luồng ấy là nguồn tiền không biết bao nhiêu mà tính. Luồng là giống cây dễ trồng, mọc khỏe, lớn nhanh. Sau trận mưa rào mùa hạ, các mầm măng bụ bẫm đội đất lên tua tủa để mùa sau, một nghìn khóm luồng lại được bổ sung thêm hàng vạn cây. Giá một cây luồng tại thời điểm này là mười nghìn đồng tại gốc, thêm khoản tận thu của nó cũng phải gấp đôi giá ấy. Cành ngọn cây luồng, ngoài làm củi đóm, còn là nguyên liệu để chế biến bột giấy mà Nhà máy giấy Vạn Mai gần đấy đang khát nguyên liệu. Măng của luồng cũng là thứ măng đang được thị trường ưa chuộng.
Ði giữa vùng sinh thái xanh, một vành đai phòng hộ hồ sông Ðà, tôi lại nhớ Ao Tá ảm đạm xưa, giờ đã đổi thay rồi. Sự năng động cùng tư duy làm ăn mới như ông Ðinh Xuân Mai, ông Hà Văn Anh và nhiều người giỏi nữa ở Phúc Sạn, Tân Mai đang trỗi dậy lan tỏa, náo nức cả vùng núi đồi một thời hoang hóa.