Theo đánh giá và dự đoán của các chuyên gia, “ngũ giác” mục tiêu của Việt Nam đã đẹp lên trong năm 2004 và sẽ còn đẹp hơn trong năm 2005. Minh chứng và lý giải cho đánh giá cũng như dự đoán này, các chuyên gia đã đưa ra các biểu hiện sau đây.
“Đỉnh” tăng trưởng đang trên đà cao lên
Sau khi đạt đỉnh cao nhất vào năm 1995, tốc độ tăng trưởng GDP đã bị sút giảm và xuống mức đáy vào năm 1999 (năm 1995 tăng 9,54%, năm 1996 tăng 9,34%, năm 1997 tăng 8,15%, năm 1998 tăng 5,76%, năm 1999 tăng 4,77%), chủ yếu do tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực. Bắt đầu từ năm 2000, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã liên tục cao lên (năm 2000 tăng 6,79%, năm 2001 tăng 6,89%, năm 2002 tăng 7,08%, năm 2003 tăng 7,26%). Bước vào năm 2004, đà tăng trưởng cao lên càng được thể hiện rõ: quý I tăng 7%, quý II tăng 7%, tính chung 6 tháng tăng 7%, quý III vượt lên tăng trên 8%, tính chung 9 tháng tăng 7,4%, quý IV tiếp tục tăng trên 8%, nên tính chung cả năm 2004 tăng 7,69%.
Đà tăng trưởng qua các năm, đặc biệt là nửa cuối năm 2004 là tín hiệu khả quan để đạt tốc độ tăng cao hơn trong năm 2005, tạo điều kiện thực hiện mục tiêu tăng trưởng GDP của cả thời kỳ 5 năm 2001 - 2005. Có chuyên gia còn dự đoán khá mạnh bạo: Việt Nam sẽ bước vào thời kỳ “cất cánh” ngay từ năm 2005. Quyết tâm của Nhà nước đã được thể hiện trong việc đề ra mục tiêu năm 2005 GDP tăng 8,5% và Thủ tướng Chính phủ trong chỉ thị về việc xây dựng kế hoạch 2006-2010 cao gấp đôi năm 1990, tức là tốc độ tăng GDP trong sáu năm còn lại (2006-2010) phải đạt được trên 9,5%/năm, một tốc độ tăng mà các thời kỳ trước đó chưa bao giờ đạt được và nếu xét từng năm thì mới chỉ có một năm 1995 là đạt được.
“Đỉnh” thất nghiệp đã thấp hơn
Tỷ lệ thất nghiệp cũng đã liên tục giảm xuống (năm 1998 là 6,9%, năm 1999 còn 6,7%, năm 2000 còn 6,4%, năm 2001 còn 6,3%, năm 2002 còn 6%, năm 2003 còn 5,8% và năm 2004 còn 5,6%). Tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam đứng thứ 39 trong tổng số 75 nước và vùng lãnh thổ có số liệu so sánh.
Thất nghiệp giảm có nguyên nhân quan trọng từ sự phát triển các thành phần kinh tế, bởi chính khu vực ngoài Nhà nước mới là khu vực thu hút được nhiều nhất số lao động tăng thêm trong thời gian qua (số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2004 là 42.329,1 nghìn người, tăng 12.916,7 nghìn người so với năm 1990, thì khu vực Nhà nước chỉ tăng 1.084,4 nghìn người, chỉ chiếm 8,4% tổng số tăng, còn khu vực ngoài Nhà nước đã tăng tới 11.832,3 nghìn người, chiếm tới 91,6% tổng số tăng).
Thất nghiệp giảm rất có ý nghĩa, bởi trong ba yếu tố đầu vào thì vốn phải đi vay, phải trả cả vốn và lãi (thậm chí còn là lãi kép, tức là lãi suất tính bằng ngoại tệ và tỷ giá VND/ngoại tệ tăng), thiết bị - công nghệ còn phải đi mua, mà không phải lúc nào cũng mua được công nghệ nguồn (thậm chí còn mua phải thiết bị - công nghệ cũ, lạc hậu), trong khi lao động là nội lực hiện có số lượng khá dồi dào (thậm chí đến mức dư thừa). Thất nghiệp giảm còn có ý nghĩa là việc làm tăng, cũng có ý nghĩa thu nhập và sức mua có khả năng thanh toán gia tăng, làm gia tăng tiêu thụ - một yếu tố quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế.
“Đỉnh” lạm phát cao ngoài ý muốn
Mục tiêu lạm phát cả năm nay là 4-5%. Nhưng ngay từ đầu năm dịch cúm gia cầm đã làm cho trên 15% đàn gia cầm bị tiêu hủy, làm hụt một lượng thực phẩm không nhỏ; cho đến thời điểm 1/8 đàn gia cầm vẫn còn bị giảm 14,3%. Giá lương thực thế giới tăng cao, giá xuất khẩu gạo so với cùng kỳ của 11 tháng tăng 23,1%, kéo giá lương thực ở trong nước tháng 11-2004 so với tháng 12-2003 tăng 13,1% (nếu tính bình quân 11 tháng so với cùng kỳ thì tăng 12,7%). Giá thực phẩm 11 tháng cũng tăng tới 16,3%, chủ yếu do dịch cúm gia cầm, do giá thức ăn tăng cao...
Trong khi đó giá nhập khẩu tính bằng USD tăng khá cao so với cùng kỳ năm trước (như giá xăng dầu tăng 33,2% làm tăng 802 triệu USD, giá sắt thép tăng 36,1% làm tăng 580 triệu USD, giá chất dẻo tăng 32% làm tăng 250 triệu USD, giá phân bón tăng 33,1% làm tăng 179 triệu USD, giá bông tăng 24,4% làm tăng 35 triệu USD, giá sợi tăng 13,2% làm tăng 35 triệu USD, giá lúa mỳ tăng 29,1% làm tăng 34 triệu USD, giá giấy tăng 7% làm tăng 14 triệu USD; Chỉ tám mặt hàng trên do giá tăng đã làm tăng 1.929 triệu USD, chiếm 36,5% tổng mức tăng của kim ngạch nhập khẩu và bằng 33,9% kim ngạch xuất khẩu cùng kỳ của những mặt hàng này).
Xu hướng tăng cao của giá cả đã được Tổng cục Thống kê, các phương tiện thông tin đại chúng, các đại biểu Quốc hội trong kỳ họp thứ 5 cảnh báo sớm, nhưng một số cơ quan chức năng xử lý chậm. Tuy nhiên, Chính phủ đã có nhiều giải pháp quyết liệt để kiềm chế tăng giá, nhất là giảm thuế suất thuế nhập khẩu, bù giá xăng dầu, giá sắt thép, giãn tiến độ xuất khẩu gạo, tăng lãi suất tái cấp vốn, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cấm các tổng công ty tăng giá, hoãn việc phát lương mới... nên tháng 10 giá đã dừng tăng, tháng 11 chỉ tăng nhẹ, tính chung 11 tháng đã tăng 8,8% và cả năm tăng khoảng 9,5%. Dù sao thì tốc độ giá tiêu dùng năm 2004 cũng là tốc độ tăng cao nhất tính từ năm 1996 đến nay và cũng là đỉnh cao ngoài mong đợi của các nhà đầu tư, của người tiêu dùng nhất là những người có thu nhập thấp, của các nhà hoạch định chính sách vĩ mô.
“Đỉnh” cán cân thanh toán cơ bản ổn định
Cán cân tổng thể không có biến động lớn, cán cân thương mại có sự cải thiện do xuất khẩu tăng cao hơn nhập khẩu (11 tháng xuất khẩu tăng 29,7%, nhập khẩu tăng 23,2%, nên nhập siêu khoảng 4.461 triệu USD, giảm 120 triệu USD, tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu còn 18,9%, thấp hơn tỷ lệ 25,2% của cùng kỳ). Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) theo đăng ký tăng khá, vốn bổ sung còn tăng cao hơn. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) theo cam kết lên đến 3,4 tỷ USD, cao nhất từ trước tới nay, thể hiện lòng tin của các nhà đầu tư, các nhà tài trợ nước ngoài vì họ “trông giỏ bỏ thóc”. Lượng khách quốc tế đến Việt Nam 11 tháng đã đạt trên 2,644 triệu lượt người, không những cao hơn cùng kỳ mà còn cao hơn mức cả năm từ trước tới nay, ước cả năm có thể vượt qua mốc 2,9 triệu lượt người. Chi tiêu của khách cũng cao hơn, nên doanh thu ước cả năm có thể đạt hơn 2 tỷ USD, cao hơn nhiều so với mức 1,6 tỷ USD của năm 2003. Lượng kiều hối gửi về nước đạt tới bốn tỷ USD, cao nhất từ trước tới nay. Giá USD 11 tháng chỉ tăng 0,3%, thấp nhất từ 1996 đến nay.
“Đỉnh” đói nghèo thấp xuống
Nhờ tốc độ tăng trưởng kinh tế cao lên, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm giảm, mà tỷ lệ nghèo chung và tỷ lệ nghèo lương thực - thực phẩm đã giảm xuống so với các năm trước đây. Vào năm 1990, tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam là 70%, tỷ lệ nghèo lương thực - thực phẩm là 55%, thì đến năm 2001- 2002 tương ứng còn 28,9% và 10%, khả năng năm 2004 còn thấp hơn nữa. Tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo là hai mặt của phát triển. Con người và vì con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của tăng trưởng.
Như vậy, “ngũ giác” mục tiêu của Việt Nam năm 2004 về cơ bản là đẹp lên: đẹp lên ở bốn “đỉnh”, chỉ có một “đỉnh” là lạm phát chưa được như ý muốn, song lại cho ta nhiều bài học quý, nhất là bài học về khắc phục tình trạng giảm phát, vì giảm phát làm cho nền kinh tế trì trệ, lạm phát ở một mức độ nhất định cũng có tác dụng kích thích tăng trưởng, bài học là không được chủ quan, bài học về kiềm chế lạm phát...