Cơ hội đến cùng thách thức
Theo đánh giá của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, khi tham gia TPP, ngành gỗ sẽ được hưởng lợi nhiều vì hầu hết các đối tác xuất, nhập khẩu gỗ đều nằm trong nhóm các nước tham gia hiệp định. Các chuyên gia cũng phân tích, muốn xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong nhóm các quốc gia được ưu đãi thuế suất thì các doanh nghiệp gỗ trong nước phải bảo đảm 70% số nguyên liệu sản xuất trong nội khối, 30% còn lại nhập từ các nước khác, trong đó có một lợi thế là doanh nghiệp mà Việt Nam sẽ mua nguyên liệu với thuế suất bằng 0% và được công nhận tính hợp pháp của nguyên liệu.
Khi tham gia Hiệp định TPP, các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ trong nước sẽ có thị trường lớn mạnh, quan hệ thương mại trong nhóm nước cùng tham gia hiệp định sẽ thuận lợi hơn, thu hút vốn đầu tư của các quốc gia trong ngành gỗ sẽ mạnh hơn. Các doanh nghiệp ngành gỗ cũng dễ dàng tiếp cận được công nghệ mới, quản trị mới của các quốc gia tiên tiến, chất lượng sản phẩm gỗ theo đó sẽ cao hơn. Nhóm các nước tham gia TPP đều là những quốc gia mà Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu gỗ khá lớn, như Mỹ, Nhật Bản, Ca-na-đa… kỳ vọng ngành gỗ xuất khẩu sẽ tăng trưởng mạnh trong những năm tới.
Việc các nước trong TPP được hưởng chính sách thuế ưu đãi cũng sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam không chỉ mua gỗ nguyên liệu từ các nước này để được hưởng thuế suất bằng 0% khi xuất đi, mà còn được mua các thiết bị công nghệ với thuế suất giảm mạnh, chỉ từ 3 đến 4% thay vì mức 17% đến 20% từ các nước EU đang áp dụng. Bên cạnh đó, dòng vốn ODA và vốn FDI vào Việt Nam sẽ nhiều hơn khi chúng ta tham gia TPP, từ đó tạo nguồn vốn cho phát triển và nâng cao kim ngạch xuất khẩu. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện có hơn 450 doanh nghiệp FDI đầu tư vào ngành gỗ, trong đó chế biến gỗ có 230 doanh nghiệp với tỷ trọng xuất khẩu chiếm khoảng 35% đến 40% sản lượng đồ gỗ hằng năm.
Tuy nhiên, trong hiệp định TPP có quy định về hàm lượng giá trị khu vực. Điều này trở thành rào cản lớn, nhất là hiện nay hơn 80% số gỗ súc dùng để sản xuất sản phẩm gỗ ở Việt Nam đều phải nhập khẩu. Bên cạnh đó là khó khăn về vấn đề lao động. Hiện nay, năng lực và trình độ sản xuất của người lao động trong ngành chế biến, sản xuất gỗ của các doanh nghiệp nước ta còn thấp, trong khi năng suất lao động các nước nội khối khá cao. Một khó khăn khác là trình độ công nghệ, quản trị kinh doanh, tiếp thị dịch vụ, mẫu mã sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước đang có khoảng cách rất lớn so với các nước trong TPP. Theo Thứ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Công Tuấn, để chủ động hội nhập, cần nhanh chóng xây dựng quy hoạch phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ và vùng nguyên liệu để làm cơ sở cho các doanh nghiệp có định hướng trong đầu tư phát triển; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh được tiếp cận với nguồn vốn vay để đầu tư thiết bị; đầu tư trồng cây gỗ lớn với thời gian vay, trả nợ phù hợp thời gian sinh trưởng và phát triển của cây; có biện pháp để giảm chi phí cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất và xuất nhập khẩu...
Chủ động để hội nhập
Tổng Giám đốc Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam Phí Mạnh Cường cho rằng, sẽ thuận lợi nhiều hơn khó khăn cho các doanh nghiệp gỗ trong nước khi tham gia Hiệp định TPP. Trong đó, chủ yếu các quốc gia thuộc nhóm nước cam kết hiệp định áp dụng thuế suất 0%, duy nhất chỉ còn Mê-hi-cô vẫn áp dụng mức thuế từ 5% đến 10% áp dụng đối với từng sản phẩm gỗ. Lượng khai thác gỗ rừng của các doanh nghiệp trong nước những năm trước đây đạt thấp, chỉ vào khoảng 400 nghìn m3 mỗi năm. Nhưng từ năm 2010 trở lại đây nhu cầu gỗ nguyên liệu đã tăng cao, dự báo đến năm 2020 sẽ tiêu thụ khoảng 22 triệu m3 nguyên liệu trong nước. Theo ngành lâm nghiệp, hiện cả nước còn có hơn 800 nghìn ha cao-su, với chu kỳ khai thác 25 năm, đến năm 2020, chỉ riêng cao-su khai thác gỗ đã cho sản lượng từ 5 triệu đến 6 triệu m3 cao-su nguyên liệu. Bên cạnh đó, với hơn 2,5 triệu ha rừng trồng, đến năm 2020 sẽ cung cấp khoảng 15 triệu đến 16 triệu m3, chưa kể lượng gỗ phân tán sẽ cung cấp hàng triệu m3. Như vậy, nhu cầu về nguyên liệu gỗ khai thác trong nước từ nay đến năm 2020 sẽ đủ phục vụ các doanh nghiệp chế biến và sản xuất.
Cùng với 12 đối tác quan trọng trong TPP, hiện nay, Trung Quốc đang trở thành một thị trường truyền thống của các doanh nghiệp gỗ Việt Nam với doanh thu hàng tỷ USD mỗi năm. Theo Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam Nguyễn Tôn Quyền, năm 2014, Việt Nam xuất khẩu được 940 triệu USD sang thị trường này, trong đó hơn 700 triệu USD là sản phẩm thô như dăm mảnh, gỗ tròn, sản phẩm tinh chế ít.
Để chủ động, các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ cần quan tâm hơn đến vấn đề minh bạch trong xuất xứ nguyên liệu gỗ. Bên cạnh việc tăng cường trồng rừng để bảo đảm vùng nguyên liệu gỗ, các doanh nghiệp bảo vệ và phát triển rừng cũng cần xây dựng bộ tiêu chí theo quy định quốc tế về xuất xứ, đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc.
Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Đề án Tăng cường công tác quản lý khai thác gỗ rừng tự nhiên giai đoạn 2014-2020. Theo đó, sau năm 2020 sẽ tạo được những khu rừng sản xuất có chất lượng tốt đủ điều kiện khai thác bền vững, nhằm đáp ứng nhu cầu gỗ rừng tự nhiên cho tiêu dùng trong nước và từng bước thay thế gỗ nhập khẩu. Bên cạnh đó, kiểm soát chặt chẽ khâu chế biến, mua bán gỗ để ngăn chặn tình trạng tiêu thụ, sử dụng gỗ bất hợp pháp. Rà soát, kiểm tra các cơ sở chế biến gỗ, chỉ cho phép hoạt động đối với các cơ sở đúng quy hoạch, có nguồn nguyên liệu ổn định và bảo đảm hệ thống sổ sách đáp ứng cho công tác truy xuất, kiểm soát nguồn gốc gỗ hợp pháp; hạn chế hình thành mới đối với các cơ sở chế biến, mua bán gỗ; giải tỏa và không hình thành mới các cơ sở chế biến gỗ ở trong rừng và gần rừng tự nhiên; cương quyết đình chỉ hoạt động đối với những cơ sở chế biến gỗ vi phạm pháp luật nghiêm trọng…
Tạo cơ chế, chính sách phù hợp, chủ động các vùng nguyên liệu, nâng cao năng lực cạnh tranh, đầu tư thiết bị, công nghệ, tìm hiểu thị trường quốc tế đa dạng… đang là bài toán cần lời giải cho các doanh nghiệp gỗ trước ngưỡng cửa Hiệp định TPP, nhằm phát triển ổn định và bền vững.