Thời "hoàng kim" qua nhanh
Trước ngày miền Nam giải phóng, không ai nghĩ rằng vùng đất Bảo Lộc - Lâm Đồng sẽ trở thành trung tâm của ngành dâu tằm tơ Việt Nam. Bắt đầu từ năm 1977, Cục Dâu tằm (Bộ Nông nghiệp) cử một số cán bộ vào đây nghiên cứu và lập trại thực nghiệm sản xuất giống tằm đầu tiên trên cao nguyên.
Sau cuộc tiền trạm này, người ta cho rằng, Bảo Lộc sẽ là nơi phù hợp nhất nước cho việc phát triển nghề trồng dâu, nuôi tằm. Không mấy lâu sau, với sự cổ súy, hỗ trợ của ngành dâu tằm, số lượng cư dân Lâm Đồng theo nghề tằm tang đã tăng lên rất nhanh. Khắp mọi miền trong tỉnh, nông dân sẵn sàng chặt bỏ nhiều loại cây trồng khác để trồng dâu và làm quen với nghề nuôi tằm. Cùng với Lâm Đồng, nhiều địa phương trong nước như Nghệ An, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Sơn La cũng từng bước phục hưng nghề tằm tang…
Năm 1985, Liên hiệp các xí nghiệp dâu tằm tơ Việt Nam (LHCXNDTTVN) ra đời, trụ sở đóng tại Bảo Lộc. Thị xã miền cao nguyên đã trở thành “thủ đô dâu tằm”. Vùng đất này không mấy lâu sau đã thay da đổi thịt nhờ vào sự mở rộng quy mô nhanh chóng của ngành dâu tằm tơ. Không chỉ riêng Bảo Lộc, nhiều địa phương ở Lâm Đồng đã đưa cây dâu con tằm vào cơ cấu kinh tế như một mũi nhọn, chủ lực và huyện nào cũng mở một xí nghiệp sản xuất, chế biến tơ tằm. Sự hụt hẫng của nền kinh tế ở nhiều huyện về sau này, khi nghề dâu tằm tụt dốc, cũng bắt đầu từ cái nhìn quá lạc quan này.
Sự ra đời của LHCXNDTTVN đồng thời với việc xây dựng một hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất dâu-tằm-tơ-lụa khép kín trong một quy mô đồ sộ. Có thể nói, không mấy ngành được đầu tư và phát triển kết cấu hạ tầng nhanh chóng như ngành dâu tằm. Trong khoảng mười năm, từ 1985-1994, quãng thời gian được coi là thời “hoàng kim” của ngành, ngoài trụ sở rất “hoành tráng” ở Bảo Lộc, hàng loạt các nhà máy, xí nghiệp, nông trường đã ra đời. Đó là các nông trường như Đại Lào, Côhinda, Đăm Bri…; các xí nghiệp chế biến như Tháng Tám, Lộc Đức, Đơn Dương, Nam Lâm Đồng.
Tiếp đó, năm 1990, bốn nhà máy ươm tơ tự động hiện đại vào loại nhất nhì khu vực châu Á đã đồng loạt khai trương là Đại Lào, Bình Minh, Rạng Đông, Hòa Bình và năm 1993 lại đánh dấu sự ra đời của Công ty tơ Việt-Ý. Ở thời kỳ này, LHCXNDTTVN đã thành lập được một Trung tâm nghiên cứu dâu tằm, cũng đã có những công ty sản xuất giống tằm cấp I, cấp II. Diện tích canh tác dâu lúc cao điểm lên tới hàng chục nghìn ha, sản lượng tơ đạt 400 tấn/năm. Với tham vọng phát triển đa dạng, ngành còn mở rộng phạm vi đầu tư sang các lĩnh vực khác như du lịch, ngân hàng…
Sản xuất carvat bằng công nghệ dệt kim.
Phát triển thiếu bền vững và món nợ 624 tỷ đồng
Thời “vàng son” của ngành dâu tằm tơ kéo dài không lâu. LHCXNDTTVN đã gục ngã thực sự sau 10 năm đầu tư xây dựng. Chấm dứt thời kỳ hoàng kim của mình, Liên hiệp gần như đã phá sản với món nợ 624 tỷ đồng không còn khả năng hoàn trả. Để tạm thời cứu vãn, Nhà nước đã cho khoanh nợ. Thế nhưng, dù đã được ưu ái như thế, ngành dâu tằm vẫn coi đó như là một chiếc “vòng kim cô” nặng trịch trên đầu trong suốt hơn 10 năm qua.
Nguyên nhân nào dẫn đến sự khủng hoảng của ngành dâu tằm tơ Việt Nam? Đó là một câu hỏi khó trả lời đầy đủ và thấu đáo. Các chuyên gia, các nhà quản lý kinh tế đã giải thích về sự sụp đổ này, họ đã nêu lên nhiều lý do khác nhau. Chúng tôi đồng tình với cách nói hình tượng: Sự phát triển ngành dâu tằm tơ Việt Nam giống như việc xây dựng một tòa lâu đài mà không có chân đế.
Năm 1994, ngành dâu tằm cả nước bị những tác động xấu từ thị trường thế giới và sự phát triển của cây dâu, con tằm đã bị chững lại. Nhiều nông dân từng chặt bỏ các cây trồng khác theo cây dâu, con tằm nay phải chặt bỏ cây dâu vì không thể tiếp tục.
Từ một doanh nghiệp lớn, Liên hiệp trở thành một con nợ khốn khổ của các ngân hàng. Món nợ 624 tỷ đồng đeo đẳng cùng với những phương án sản xuất-kinh doanh đình đốn đã đưa Liên hiệp đi đến bờ vực lúc nào không hay. Một quan chức của ngành dâu tằm lý giải: Liên hiệp đổ bể là do đầu tư ồ ạt, đầu tư không tính toán đến hiệu quả.
Theo chúng tôi, đó là một trong những lý do dẫn đến sự thất bại của ngành dâu tằm. Nhưng, xét một cách sâu sắc và đầy đủ hơn thì ngành đã “gục” bởi vì không chuẩn bị kỹ những yếu tố cần thiết cho một nền sản xuất-kinh doanh bền vững. Trong một thời gian dài, Liên hiệp chỉ lo đến chuyện ký kết các bản hợp đồng, tìm đối tác liên doanh mở các nhà máy xe tơ, dệt lụa mà quên mất yếu tố cơ bản nhất, đó chính là chuẩn bị một nguồn nguyên liệu đủ đáp ứng cả về số lượng lẫn chất lượng.
Nói cụ thể là ngành đã không tập trung đầu tư cho khâu nông nghiệp, khâu quan trọng bậc nhất trong chuỗi hoạt động dâu-tằm-tơ-lụa. Từ hàng chục năm nay, chất lượng thấp của giống dâu và giống tằm vẫn là vấn đề thời sự. Cả một ngành có quy mô đồ sộ và nhu cầu sử dụng nguyên liệu lớn như thế nhưng hai chục năm nay dâu tằm tơ Việt Nam vẫn chưa chủ động được khâu giống.
Hiện nay, gần 90% diện tích là dâu giống cũ, năng suất lá chỉ cho 8-10 tấn/ha, cho thu 1 tấn kén; trong khi một số nước láng giềng 1ha dâu của họ cho thu 40-50 tấn lá, thu 3-5 tấn kén. Giống tằm cũng trong tình trạng như vậy. Nhu cầu cả nước mỗi năm cần 600-800 nghìn hộp trứng giống, thế nhưng chưa có nguồn cung cấp chất lượng cao. Vì vậy, nguồn trứng giống tằm vẫn phải phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu, chủ yếu là qua con đường tiểu ngạch do tư thương chi phối và không thể kiểm soát chất lượng.
Sự hạn chế của giống đã dẫn đến sản lượng và chất lượng thấp, giá thành sản phẩm cao. Từ đó, VISERI không đủ năng lực cạnh tranh với thị trường tơ tằm thế giới. Đây là một bài học đắt giá và cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự bế tắc của ngành…
Bao giờ vượt qua khủng hoảng?
Với quyết tâm đưa con thuyền dâu tằm tơ vượt qua khủng hoảng, từ năm 1995, LHCXNDTTVN đã được cải tổ thành Tổng công ty Dâu tằm tơ Việt Nam, tên giao dịch là VISERI. Thế nhưng, thực tiễn hoạt động của Tổng công ty này trong những năm qua vẫn không có gì sáng sủa hơn, cơn khủng hoảng vẫn đang tiếp diễn. Ông Phạm Xuân Sanh - Phó Tổng giám đốc VISERI, nói: “Cái khó nhất của chúng tôi hiện nay là vốn. Không có vốn đầu tư thì không có sự phát triển. Món nợ cũ quá lớn cùng với sự phong tỏa của các ngân hàng đã làm chúng tôi phải bỏ lỡ mất nhiều cơ hội. Khó khăn lớn thứ hai vẫn là vấn đề giống dâu và giống tằm. Đến nay, VISERI vẫn chưa chủ động được khâu này”.
Hộp đựng tơ nguyên liệu của Trung Quốc mới nhập về.
Theo ông Sanh, hiện tại, 60-70% trứng giống tằm phụ thuộc vào Trung Quốc và do tư thương thao túng. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có hai trung tâm sản xuất giống, nhưng nguồn giống của hai trung tâm này không được người trồng dâu nuôi tằm chấp nhận.
Như đã nói ở trên, giống kém thì năng suất thấp, hiệu quả thấp và giá thành cao. Liên tục trong nhiều năm qua, kén nguyên liệu trên thị trường bị tư thương cạnh tranh quyết liệt và đẩy giá lên cao. Giá kén của nông dân tại thời điểm này đã lên tới 45 nghìn đồng/kg.
Giá kén nội địa cao, các nhà máy thành viên VISERI không thể nào mua nổi, họ đành phải đi mua nguyên liệu từ Trung Quốc với giá rẻ hơn. Theo báo cáo của Tổng Công ty, các thành viên của VISERI chỉ mua được 20% lượng kén nội địa. Nếu tính ra, Tổng Công ty mua 1kg tơ Trung Quốc (kén khô) có giá 250 ngàn đồng; còn mua của nông dân trong nước sẽ là 340 nghìn đồng/kg, chênh lệch gần 100 nghìn đồng.
Giá thành nguyên liệu trong nước cao là do sự lạc hậu trong khâu đầu vào, đặc biệt là khâu giống. Thế nhưng, người dân sản xuất kén, tơ mà doanh nghiệp nhà nước lại phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài, đúng là một nghịch lý, một thực tế đau lòng. Như vậy, vấn đề cốt lõi để phục hồi ngành dâu tằm tơ, tức là chủ động khâu giống để cải thiện chất lượng nguồn nguyên liệu, vẫn chưa có lời giải.
Lâu nay, Tổng Công ty Dâu tằm tơ hoạt động trong một thế đứng thiếu vững chắc, vốn nội lực eo hẹp, giật gấu vá vai, các ngân hàng hoàn toàn quay lưng. Hệ thống dây chuyền sản xuất, chế biến của VISERI công nghệ đã lạc hậu, chưa khép kín, đồng bộ. Không thể nào lao vào thương trường quốc tế khi năng lực cạnh tranh thấp, các nhà máy ươm tơ hầu hết phải đóng cửa hoặc hoạt động rất cầm chừng.
Các xí nghiệp, nhà máy cấp địa phương hầu hết đã bỏ hoang. Nhiều cơ sở xe tơ của VISERI phải làm thuê cho nước ngoài. Thật đáng buồn khi một tổng công ty nhà nước lại trở thành một cơ sở gia công, một nơi cho thuê nhà xưởng lấy kinh phí nuôi sống bộ máy. Chúng tôi đã theo chân lãnh đạo VISERI đến thăm các cơ sở của đơn vị, và thấy buồn hơn khi nghĩ đến những tài sản quý giá của nhà nước đã bị bỏ phí hoặc khai thác không mấy hiệu quả…
VISERI đang bị sa lầy nghiêm trọng. Nhiều giải pháp đã được đưa ra, nhưng chưa có giải pháp tối ưu. Cổ phần hóa là một phương án đã được tính đến, nhưng khó có thể thực hiện vì những tồn tại, lấn cấn cũ còn chưa giải quyết xong. Bán hoặc cho thuê doanh nghiệp cũng là điều đã được nghĩ tới. Nhưng dù sao, điều mong mỏi là phải tìm cách chấn hưng được ngành dâu tằm tơ, tạo nên một thế đứng bền vững cho ngành để trở thành điểm tựa cứu giúp những người nông dân đang theo đuổi nghiệp tằm tang, canh cửi.