Người đội trưởng trinh sát đặc biệt
Trần Tấn Nghĩa là tên ông khi hoạt động trong thành Hà Nội thời kỳ đầu cách mạng, còn tên thật của ông là Nguyễn Bá Hùng với biệt danh "Hùng thổ phỉ". Ông tham gia cách mạng khi vừa tròn 18 tuổi, được chọn vào công tác tại Sở Liêm phóng Bắc Bộ ngay từ những ngày đầu, với trọng trách là "Ðội trưởng đội trinh sát đặc biệt".
Ðây là đơn vị trinh sát vũ trang chịu trách nhiệm điều tra hoạt động của bọn phản cách mạng gian ác và bí mật trừng trị. Chỉ có hơn 10 trinh sát trẻ nhưng đơn vị của ông hoạt động khắp các địa bàn thuộc Bắc Bộ; bọn Việt gian đầu sỏ và cả bọn Tây thực dân khi nghe danh các ông đều kinh khiếp. Vụ bắt tên Tham Trân ở Phú Thọ, bắt tên trùm ám sát Phạm Ngọc Chi ngay tại nhà hàng Thủy tọa bên hồ Hoàn Kiếm, thu hai khẩu súng đạn đã lên nòng khi y đang tiến hành kế hoạch ám sát Trường Chinh và Nguyễn Lương Bằng; sau đó là trừ khử tên trùm ám sát Hùng "trố" ở phố Sinh Từ, ông đều trực tiếp thực hiện cùng đồng đội.
Trong cuộc trấn áp đập tan cuộc đảo chính phản cách mạng của Quốc dân Ðảng hồi tháng 7-1946, đội của ông được giao là lực lượng chủ công. Các đội viên trong Ðội trinh sát đặc biệt đã khám xét hàng chục trụ sở; ở 80 phố Quán Thánh, cuộc chiến đấu diễn ra hai giờ đồng hồ mới giành thắng lợi.
Tại số 7 phố Ôn Như Hầu, tên Khu Bộ trưởng Phan Kích Nam mang danh đại biểu Quốc hội cùng hàng chục tay súng vừa ngạo mạn xem thường, vừa lăm lăm uy hiếp khi ông vào thực hiện lệnh khám xét. Sau hai lần thuyết phục không được, ông mưu trí một mình vào trụ sở đối thoại trực diện với Phan Kích Nam. Lần thứ ba, ông mang theo hai khẩu súng, một khẩu giấu trong người, một khẩu đeo bên mình. Khi gặp Nam, ông rút súng để trên bàn để y mất cảnh giác. Và Nam mất cảnh giác thật, vì thế khi tiếp cận ông đã bất ngờ dùng một thế võ hiểm quật ngã và tóm gọn đối tượng, không cần lực lượng hỗ trợ phải vũ trang trấn áp.
Ông còn được giao nhiệm vụ đóng vai Trung tướng của Mỹ - Diệm nhảy dù xuống Ðồng Văn (Hà Giang) xâm nhập hang ổ phỉ, góp phần kết thúc chiến dịch tiễu phỉ ở các tỉnh vùng núi phía bắc và Bắc Trung Bộ.
Bấy giờ là năm 1959, lực lượng vũ trang ta đã trấn áp hầu hết các hang ổ phỉ, vụ nổi phỉ cuối cùng là ở Quản Bạ, Ðồng Văn. Bọn Mỹ - ngụy ở miền nam và đặc vụ Tưởng đã liên lạc với chúng từ trước, hứa sẽ cử người ra phối hợp. Tương kế tựu kế, ông được Bộ giao trọng trách đóng vai Trung tướng của chính quyền Diệm nhảy dù xuống Hà Giang thâm nhập cơ quan chỉ huy của tổ chức phỉ. Oai vệ trong bộ quần áo cấp tướng ngụy, cầm can nạm vàng, ông bình thản và cao ngạo tiến vào gặp Vàng Chúng Dình dưới danh nghĩa vừa nhảy dù xuống.
Tại đây, ông cũng phải hút thuốc phiện, hút không ít; ăn chơi xem bói như những ông tướng của ngụy thật. Vì thế chúng tin tưởng, trọng thị ông, nhờ ông chỉ vẽ nhiều điều, nên giúp ông nắm rõ đường đi nước bước của bọn cầm đầu để báo về bộ. Ông còn bày mưu dụ Vàng Chúng Dình và Vương Chí Thành viết thư lần lượt gọi hơn 10 tên tướng phỉ liều lĩnh và ngoan cố nhất về họp, để bên ngoài ta bí mật đón bắt.
Ông nói vui: Lúc bấy giờ đã là Trung tướng, vậy mà hơn 20 năm sau, khi về nghỉ mới được phong quân hàm Ðại tá. Nhớ lại thời hoạt động trước đây, ông nói rằng, ngày ấy không nghĩ nhiều, chỉ biết dâng hiến cuộc đời mình cho Ðảng, quyết tâm hoàn thành thật tốt nhiệm vụ cấp trên giao phó, không biết sợ và vì thế khó khăn đến mấy cũng nghĩ ra kế sách hay, chứ không chịu lùi bước. Bây giờ đã già, ra ngõ còn sợ va quệt, sợ tai bay vạ gió, nhưng nghĩ về tuổi trẻ của mình, của đồng chí, đồng đội mình, vẫn thấy tự hào lắm.
Hiến dâng cho Tổ quốc
Ông Lê Hưng quê ở Hưng Yên, thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, ông làm nghề buôn bán vải, tơ lụa ở số nhà 54 phố Hàng Ðào, Hà Nội. Buôn bán dễ dàng nên làm ăn phát đạt. Ông có người bạn là Lê Toàn, cán bộ Công an Hà Nội. Do yêu cầu công việc, đầu năm 1954, Lê Toàn tìm đến và yêu cầu ông giúp đỡ trong việc điều tra một số phần tử khả nghi hoạt động phản cách mạng. Vốn cảm mến bạn và nghĩ về nghĩa vụ người công dân dưới chế độ mới, ông nhận lời. Lúc đầu, ông cho anh em mượn ngôi nhà là tiệm buôn của mình để làm trụ sở liên lạc. Dần dần ông trở thành người tình nguyện trong tổ chức, tham gia nhiều công việc để giúp các chiến sĩ an ninh tìm hiểu về số đảng viên Ðại Việt đi theo địch.
Khi ấy, cơ quan tình báo Mỹ tuyển chọn nhiều tay sai đưa ra nước ngoài huấn luyện gián điệp để cài lại miền bắc. Công an Hà Nội xây dựng phương án điều trinh sát Ðỗ Văn Kha đến một địa bàn thuận lợi nhằm lót ổ chờ bọn giám điệp về móc nối. Ông Lê Hưng được chọn giúp trinh sát Ðỗ Văn Kha. Ông cho Kha đến ở nhà mình và bằng uy tín trong làm ăn, ông xin cho Kha chân bàn giấy của một công ty. Quả nhiên sau đó, bọn gián điệp móc với Ðỗ Văn Kha và chúng cũng sử dụng Lê Hưng và sử dụng ngôi nhà của ông làm địa điểm liên lạc. Thế là từ đây, ngôi nhà ở 54 Hàng Ðào cùng ông chủ của nó trở thành cơ sở rất tin cậy của bọn gián điệp nhưng đồng thời cũng chính là một trong những địa điểm liên lạc của Công an Hà Nội.
Chuyện về Lê Hưng được Trung tâm chỉ huy của CIA ở Sài Gòn nắm khá chắc. Chúng không những tin mà còn muốn ông làm những việc lớn hơn, quan trọng hơn. Viên tình báo Mỹ có tên Việt Nam là "Tư Cụt" nhắn ông vào Sài Gòn chơi để trực tiếp bàn công chuyện. Nhưng vì lý do nghiệp vụ, Giám đốc Công an Hà Nội không để ông vào mà qua trinh sát Ðỗ Văn Kha đã lọt vào tổ chức gián điệp để cơ quan tình báo Mỹ bộc lộ ý đồ sử dụng Lê Hưng cũng như âm mưu mở con đường liên lạc qua Hồng Công.
Cơ quan tình báo Mỹ qua Ðỗ Văn Kha đề nghị Lê Hưng lập một công ty cổ phần thương mại ở miền bắc buôn bán với Hồng Công, mà lúc này chính quyền miền bắc đang khuyến khích. Chúng hứa sẽ cấp cho ông đủ vốn đóng góp để trở thành giám đốc công ty. Nhưng lập công ty là để ngụy trang, còn nhiệm vụ của ông là lợi dụng việc buôn bán với Hồng Công, thiết kế tuyến đường liên lạc giữa Trung tâm chỉ huy ở Sài Gòn với bọn gián điệp ở miền bắc qua đường Hồng Công, vì con đường vượt giới tuyến đang bị kiểm soát gắt gao.
Ông hiểu rằng đây là cơ hội lớn để tìm hiểu về địch, nhưng cũng vô cùng lo lắng. Không phải ông lo cho bản thân vì ông đã nguyện hiến cả sản nghiệp và sinh mạng cho sự nghiệp chung. Nhưng còn những người thân và bạn hàng, ông không thể làm cho họ bị hệ lụy! Suy nghĩ vậy, nhưng ông đã quyết phải làm bằng được. Ông báo cáo và được Giám đốc Công an Hà Nội Lê Quốc Thân động viên, nên càng vững tâm thực hiện. Công ty xuất nhập khẩu thương mại Bình Minh (BIMITY) ra đời, trụ sở đóng tại Hải Phòng.
Ðể làm cho chúng tin tưởng, ông phải tỏ ra là công ty làm ăn phát đạt. Nhưng kỳ thực công ty gặp rất nhiều khó khăn, không có tiền để trang trải; kể cả tiền lương cho anh em. Ông đã phải bán nhiều tài sản và sau đó phải cầm cố nhà cửa của mình để lấy tiền cho công ty hoạt động, cũng chính là để thực hiện nhiệm vụ cách mạng.
Bây giờ tuy tuổi đã cao nhưng ông còn minh mẫn, sống cuộc sống giản dị và dựa vào con cháu. Căn nhà 54 Hàng Ðào của ông đã sang tên cho chủ khác ngay từ thời khó khăn ấy; nay là tiệm buôn. Hằng ngày, người ra kẻ vào tấp nập, nhưng chắc hẳn không ai biết căn nhà này đã từng là trụ sở bí mật của cơ quan an ninh. Tuy sức khỏe đang kém dần nhưng ông vẫn thường gặp các bạn già mà thời trai trẻ cùng kề vai sát cánh với ông làm ăn và chiến đấu vì sự bình yên của Tổ quốc. Trong đó có ông Ðỗ Văn Kha.
15 năm cô đơn trong lòng địch
Ông Ðỗ Văn Kha năm nay đã gần 80 tuổi, đang sống ở quê nhà, tại Phố Nối, Hưng Yên. Năm 1946, ông gia nhập lực lượng công an. Lãnh đạo Công an
Hà Nội giao cho ông nhiệm vụ điều tra một số nhân vật trong các đảng phái chính trị phản động. Ông đóng vai gia sư, đi dạy học cho con em các gia đình giàu có; và thường tham gia các cuộc hội họp của số đảng viên Ðại Việt, quen biết nhiều người của tổ chức chính trị này.
Trong số đó, ông biết vài nhân vật Ðại Việt được Ðặng Văn Sung (kẻ cầm đầu và tay sai đắc lực của tình báo Mỹ) chọn cho ra nước ngoài đào tạo gián điệp. Theo yêu cầu của tổ chức, Ðỗ Văn Kha chủ động bắt thân với họ nhằm mục đích lót ổ, chờ sẵn. Nhờ đó, ngay khi bọn gián điệp được đánh trở về, chúng liền tìm đến nhờ Ðỗ Văn Kha giúp đỡ. Thế là ông - chiến sĩ an ninh đã thâm nhập thật tự nhiên vào tổ chức gián điệp đầu tiên do tình báo Mỹ cài lại miền bắc.
Ðiều này bạn bè và gia đình không hề biết; còn cơ quan an ninh, ngoài những người lãnh đạo biết, cán bộ tham gia chuyên án chỉ biết đến ông với bí số T31. Những năm ấy, cuộc sống gia đình ông thiếu thốn mọi bề, nhà cửa rách nát, vợ con lam lũ, các con không được ăn học như mọi người. Nhưng ông không có nhiều thời gian để lo cho gia đình, phải dồn tâm lực để hoàn thành nhiệm vụ.
Ông tận tình phục vụ các yêu cầu của bọn gián điệp để nắm được thật nhiều thông tin về chúng. Tin tức do ông thu được báo cáo cấp trên ngày càng nhiều và quý giá, còn bọn địch thì ngày càng tin dùng. Chúng quyết định cử ông vượt tuyến vào nam để báo cáo tình hình với trung tâm chỉ huy và nhận chỉ thị.
Theo yêu cầu của tổ chức, ông lên đường vào nam. Bọn "Tư Cụt" (tình báo Mỹ) dùng mọi thủ đoạn để kiểm tra, thử thách, kể cả dùng máy kiểm tra nói dối, nhưng không thể phát hiện được ông là chiến sĩ an ninh. Qua ông, chúng giao nhiệm vụ mới cho bọn gián điệp đồng thời đưa cho ông nhiều tiền mang ra bắc để chu cấp cho đồng bọn hoạt động.
Hai năm sau, Tư Cụt lại gọi ông vào lần thứ hai. Cấp trên biết và ông cũng biết chuyến đi lần này sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm. Trước khi đi, ông được Giám đốc Công an Hà Nội gặp, mời cơm và căn dặn kỹ từng tình huống; có cả tâm trạng băn khoăn lo lắng cho ông.
Ngay từ những ngày đầu, ông đã thấy chúng đón tiếp không nồng nhiệt như lần trước. Mấy ngày sau, việc gì đến đã đến. Chúng đưa ông vào một căn phòng cách ly với bên ngoài, hằng ngày hết tra xét đến dọa dẫm xem vào Sài Gòn ông liên lạc với ai?, và cuối cùng, chúng đưa ông lên Ðà Lạt quản thúc. Sau ba năm ở Ðà Lạt, chúng chuyển ông ra Côn Ðảo, cách ly với đất liền, với đồng chí đồng đội, và quản thúc tại đây. Sau nhiều năm theo dõi, cuối cùng chúng cho ông làm việc tại một tổ hợp buôn bán nhỏ cùng với người nhà binh sĩ và phục vụ trong khu vực trại giam.
Thế là từ đây, suốt 15 năm, ông không hề có được một mối liên hệ gì với miền bắc. 15 năm ấy, cơ quan không biết được ông sống chết ra sao, phải đưa ông vào diện mất tích.
Sống giữa đảo xa, chung quanh chỉ thấy kẻ thù; có chăng rất ít cơ hội ông mới liên hệ được với anh em tù chính trị. Cái sự ràng buộc dù ít ỏi ấy đã thôi thúc ông trấn tĩnh, rồi tìm cách móc nối cơ sở với anh em đằng mình trong trại giam cấm cố. Dần dần ông thuyết phục được một số binh sĩ trên đảo trước hết là làm điều thiện, rồi thật lâu sau họ trở thành những người cộng tác, giúp ông hoạt động. Cứ thế, như giọt nước lâu ngày bào mòn đá cứng...
Ðến năm thứ 15 tức là vào mùa xuân năm 1975, khi nghe đài, khi thấy những chuyến bay di tản chen chúc dừng chân ở đảo, ông Ðỗ Văn Kha và mọi người mới biết Sài Gòn đã giải phóng. Buổi tối 1-5, ông cùng một số anh em đứng lên phá nhà giam, phá kho vũ khí giành chính quyền, và điện báo tin về đất liền.
Vì không nắm được tình hình ở đất liền nên chính quyền mới trên đảo được các ông đặt tên theo tinh thần của Hiệp định Pa-ri là "Ủy ban hòa giải hòa hợp dân tộc". Bốn ngày sau, Bộ đội Hải quân tiếp quản đảo, từ đây ông cùng các đồng chí mình trở thành những cán bộ nòng cốt của chính quyền cách mạng.
Cuộc hành trình 18 năm gian khổ và cô đơn ấy, nếu không có tấm lòng son sắt với Ðảng, với Tổ quốc thì chắc hẳn ông đã ngã lòng, chắc hẳn không trở thành tay sai cho địch thì rất có thể chứa chất đầy nỗi bi quan, sống những năm cuối đời như một kẻ hèn nhát - Ông Kha tâm sự.