Mắc ca, cây xóa nghèo ở vùng biên

Từ 2 ha mô hình khảo nghiệm trồng cây mắc ca ban đầu vào năm 2010 và 10 ha mắc ca mô hình năm 2011; đến nay, sau 12 năm, toàn huyện Tuy Đức (tỉnh Đắk Nông) đã phát triển lên hơn 3.100 ha, trong đó xã Quảng Trực chiếm diện tích hơn 1.330 ha. Cây mắc ca đang trở thành cây chủ lực tại Quảng Trực, giúp nhiều nông dân thoát nghèo, mở ra cơ hội làm giàu, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số khu vực biên giới.
0:00 / 0:00
0:00
Gia đình ông Điểu Drây ở xã Quảng Trực đã thoát nghèo với mô hình mắc ca trồng thuần, cho thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm.
Gia đình ông Điểu Drây ở xã Quảng Trực đã thoát nghèo với mô hình mắc ca trồng thuần, cho thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Trước đây, gia đình ông Điểu Drây ở bon Prăng I, xã Quảng Trực có 2 ha đất đồi, chủ yếu trồng lúa rẫy, cà-phê. Do quen với tập quán canh tác truyền thống, phụ thuộc vào thiên nhiên cho nên năng suất thấp, gia đình lại đông con, cái đói cái nghèo đeo bám quanh năm. Năm 2010, từ nguồn vốn của Chương trình khuyến nông quốc gia, gia đình ông Điểu Drây nhận trồng hơn 1 ha cây mắc ca. Tham gia chương trình, ngoài việc tham dự các lớp tập huấn, được chuyển giao khoa học kỹ thuật, ông còn được hỗ trợ giống, vật tư nông nghiệp.

Theo ông Điểu Drây, cây mắc ca dễ trồng, tốn ít công chăm sóc, phù hợp điều kiện canh tác ở vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, đáng chú ý là nếu trồng xen trong vườn cà-phê, hồ tiêu thì thu nhập còn tăng thêm. Với hơn 1 ha mắc ca, mỗi năm cho thu hoạch khoảng 1 tấn quả tươi, giá bán dao động từ 90 đến 100 nghìn đồng/kg, sau khi trừ chi phí, ông thu lãi hơn 80 triệu đồng/năm. Hiện diện tích trồng mắc ca của ông Điểu Drây đã thu chính vụ năm thứ 7, cũng chính nguồn thu nhập từ mắc ca mà gia đình đã thoát nghèo.

Do thiếu vốn sản xuất, canh tác lạc hậu, những năm về trước gia đình ông Điểu Ol, ở bon Bu Prăng, xã Quảng Trực lâm cảnh thiếu đói quanh năm. Đến năm 2012, ông được huyện Tuy Đức hỗ trợ nhà ở, bò giống, cây giống mắc ca, phân bón và cho vay ưu đãi 50 triệu đồng để đầu tư vào trồng trọt, chăn nuôi. Đến nay, vườn mắc ca đã cho thu chính với gần 1 tấn quả tươi/năm. Cùng với mắc ca, gia đình còn trồng thêm cà-phê, chăn nuôi bò để tăng thêm nguồn thu, nhờ đó gia đình Điểu Ol đã thoát nghèo, với tổng thu nhập hàng năm khoảng 130 triệu đồng.

Cũng từ nguồn vốn hỗ trợ của Chương trình khuyến nông quốc gia, ông Điểu Pao, ở xã Quảng Trực được hỗ trợ 400 cây giống mắc ca; được tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc vườn cây. Đến nay, mắc ca đã cho thu chính vụ năm thứ 8, sản lượng đạt gần 1,7 tấn quả tươi, với giá bán ở mức ổn định từ 90.000-100.000 đồng/kg như hiện nay, mỗi năm gia đình ông đã có nguồn thu nhập ổn định khoảng 200 triệu đồng/năm và vươn lên thoát nghèo.

Hiện nay, tại xã Quảng Trực có rất nhiều hộ nông dân trồng cây mắc ca. Trong số đó có hơn 50% là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ. Để người dân ổn định sản xuất, chính quyền, ngành chức năng đã và đang hỗ trợ kỹ thuật giúp bà con chăm sóc diện tích hiện có. Chính quyền địa phương cũng vận động người dân phát triển thêm diện tích mắc ca trên diện tích đất trống, đồi trọc; khuyến khích bà con trồng xen trong vườn cà-phê, cây ăn trái.

Qua đó, phục vụ nhu cầu ngày càng tăng của thị trường và giúp nâng cao thu nhập cho người trồng, nhất là việc xóa đói, giảm nghèo trong đồng bào dân tộc bản địa. Theo Bí thư Đảng ủy xã Quảng Trực Đoàn Lê Anh, mắc ca là loại cây trồng phát triển rất phù hợp tại địa phương. Mắc ca đã, đang mang lại hiệu quả kinh tế khá ổn định, phù hợp tập quán sản xuất của đồng bào thiểu số trên địa bàn, và trên thực tế đã giúp cho hàng trăm hộ thoát nghèo.

Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Tuy Đức Phạm Thị Phượng cho biết, diện tích mắc ca của huyện chiếm khoảng 65% diện tích mắc ca của toàn tỉnh, trong đó cây mắc ca tập trung chủ yếu ở xã Quảng Trực. Mắc ca là loại cây trồng mới nhưng đã cho thấy hiệu quả kinh tế khá ổn định, phù hợp tập quán sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số. Theo tính toán, khi vào thời kỳ kinh doanh, mắc ca đạt năng suất 1 tấn quả/ha, với giá bán như hiện nay cho doanh thu từ 90 triệu đồng đến 100 triệu đồng. Ở Quảng Trực đã có rất nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo nhờ chuyển đổi sang trồng mắc ca.

Mắc ca được đánh giá là một trong những loại cây trồng phù hợp để trồng xen canh trong vườn cà-phê, hồ tiêu... tạo nguồn thu nhập kép cho các nông hộ. Loại cây này rất phù hợp với tập quán canh tác, sản xuất của các hộ đồng bào dân tộc thiểu số. So với cà-phê, hồ tiêu, điều..., hiệu quả kinh tế của cây mắc ca mang lại lớn hơn.

Thị trường tiêu thụ sản phẩm mắc ca rất ổn định; trên thực tế đã giúp đồng bào dân tộc thiểu số huyện Tuy Đức nói chung, xã Quảng Trực nói riêng thoát nghèo bền vững. Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phạm Tuấn Anh cho biết, cây mắc ca sinh trưởng, phát triển nhanh, không kén đất, khả năng chống chịu sâu bệnh hại và chịu hạn tốt. Kỹ thuật trồng, thu hái, sơ chế, bảo quản mắc ca đơn giản, không cần nhiều công chăm sóc, chi phí đầu tư thấp.

Với đặc điểm là cây lâu năm, vừa cho hạt, vừa lấy gỗ, cho nên trồng mắc ca sẽ mang lại nhiều giá trị, tạo nguồn thu nhập cao cho nông hộ. Loại cây này còn có ý nghĩa đối với việc bảo vệ môi trường, nâng cao độ che phủ rừng. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã công nhận mắc ca là cây lâm nghiệp. Đây là căn cứ và điều kiện thuận lợi để huyện Tuy Đức phát triển, mở rộng quy mô trồng mắc ca.

Sản phẩm hạt mắc ca hiện nay đã được nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư vào chế biến, xây dựng nhãn hiệu. Nhiều sản phẩm mắc ca đã đạt chứng nhận OCOP, sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu. Tỉnh Đắk Nông cũng đang tập trung hỗ trợ các cơ sở đầu tư cho công nghệ, máy móc nhằm nâng cao giá trị sản phẩm; hình thành vùng nguyên liệu mắc ca có đăng ký mã vùng trồng; hướng tới thị trường xuất khẩu.

Theo kế hoạch, diện tích trồng mắc ca trên địa bàn tỉnh Ðắk Nông đến năm 2025 khoảng 6.506 ha; dự kiến đến năm 2030 đạt khoảng 10.923 ha; đến năm 2050 đạt khoảng 13.105 ha.