Như tên gọi, Luật Xuất bản (sửa đổi) đã đưa lại nhiều bổ sung, sửa đổi so với luật hiện hành ra đời năm 1993. Ðiều khác nhau ấy không chỉ ở độ dày dặn hơn của luật mới (46 điều) so với 45 điều của luật hiện hành, mà quan trọng là dự luật mới đã thể hiện được nhiệm vụ điều chỉnh lĩnh vực xuất bản -in-phát hành bằng những quy phạm pháp luật mới, thích ứng những biến đổi nhanh chóng của nước ta trên các mặt chính trị - kinh tế - xã hội hơn 10 năm qua.
Dự luật được soạn thảo theo hướng tạo thuận lợi cho hoạt động xuất bản phát triển đúng định hướng chính trị của Ðảng, pháp luật của Nhà nước, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác quản lý xuất bản và chất lượng xuất bản phẩm trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cải cách thủ tục hành chính.
Một trong những vấn đề được dư luận quan tâm là, dự luật cho thấy cách tiếp cận khá thực tế đối với nhân tố tư nhân trên lĩnh vực này. Ðiều 25 (mới) đưa ra 2 phương án: phương án 1 - nhà xuất bản được liên doanh (theo chúng tôi nên dùng từ liên kết) với cá nhân, tổ chức để in và phát hành xuất bản phẩm; phương án 2 - tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm, cá nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh về in hoặc phát hành xuất bản phẩm và tổ chức có tư cách pháp nhân được liên doanh (liên kết) với nhà xuất bản, kể cả về xuất bản (đầu tư vốn, tổ chức bản thảo) lẫn in và phát hành.
Tạo điều kiện mở rộng xã hội hóa xuất bản tức là khai thác thêm tiềm năng không nhỏ trong xã hội về vốn, công nghệ, trí tuệ để có thêm nhiều sản phẩm phong phú cho cuộc sống.
Thực ra, những năm gần đây, dù luật pháp chưa cho phép chính thức, nhưng một số nhà xuất bản đã tự liên kết với tư nhân. Do làm "chui", không có quy định chặt chẽ và chế tài pháp luật, nên trong khi có được thêm sản phẩm thì cũng kéo theo nhiều tiêu cực cần chấn chỉnh dưới nhiều góc độ.
Nhiều ý kiến phát biểu tại hội trường của đại biểu Quốc hội chú ý tới phương án 2 - phương án được coi là cởi mở hơn, nhưng với điều kiện: giám đốc nhà xuất bản phải tổ chức biên tập hoàn chỉnh và ký duyệt bản thảo, ký duyệt bản mẫu trước khi giao cho bên liên doanh, ký duyệt trước khi phát hành; cá nhân, tổ chức liên doanh (liên kết) với nhà xuất bản phải đứng tên và liên đới chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với xuất bản phẩm.
Dự thảo Luật Xuất bản cũng cho thấy nhiều điểm cởi mở khác, như việc lược bớt nhiệm vụ xét duyệt kế hoạch đề tài đối với cơ quan chủ quản, phù hợp chủ trương Nhà nước không kiểm duyệt xuất bản. Còn cơ quan quản lý nhà nước tập trung vào việc tổ chức đọc, lưu chiểu, thanh tra, kiểm tra; cho phép các nhà xuất bản nước ngoài thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam; khẳng định rõ: xuất bản phẩm hợp pháp của các nhà xuất bản được lưu hành rộng rãi ở trong nước, khi xuất khẩu ra nước ngoài không phải xin phép cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản,...
Ðó là những quy định phù hợp xu thế tăng cường giao lưu, hội nhập quốc tế hiện nay.
Ðể thấy rõ ý nghĩa của quy định nêu trên về xuất khẩu xuất bản phẩm, nếu chúng ta thử ngược thời gian nhìn lại những quy định về cấp phép "kép" (Nghị định 100/CP ngày 1-6-1966, Thông tư liên bộ số 3007 - TTLB/VH/HQ ngày 26-10-1985...) sẽ càng cảm nhận sâu sắc tính cởi mở của dự luật. Ðành rằng, những quy định "tự mình trói mình" này đã bị thay thế bởi Nghị định 88/2002/NÐ-CP ngày 7-11-2002, nhưng điều đó vẫn cần phải được cam kết trong một đạo luật.
Dự thảo Luật Xuất bản sẽ còn mang tính cởi mở hơn nữa, nếu thay thế quy định "cá nhân, tổ chức Việt Nam và cá nhân, tổ chức nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam nhập khẩu xuất bản phẩm không nhằm mục đích kinh doanh do Chính phủ quy định" bằng việc công bố rõ quyền đương nhiên được nhập khẩu không nhằm mục đích kinh doanh nếu như những xuất bản phẩm này không vi phạm những điều cấm nhất định (chẳng hạn những điều cấm được quy định ở Ðiều 32 trong mục "xuất bản").
Việc xác định và công bố rõ như vậy vừa làm yên lòng người nhập khẩu, vừa nâng cao tính khả thi, năng lực tiếp cận xu hướng luật ban hành là có thể thực hiện được ngay, không phải chờ nghị định, thông tư hướng dẫn. Trong trường hợp nhập khẩu vì những mục đích đặc biệt (thí dụ để phục vụ nghiên cứu...) thì mới giao Chính phủ quy định cụ thể.
Tuy nhiên, dự thảo luật còn thiếu những quy định cần thiết về những điều nhất thiết không được làm trong các lĩnh vực in và phát hành. Dự luật mới chỉ quy định những điều không được làm về xuất bản tại điều 32. Như vậy là chưa đủ. Vì sẽ có rất nhiều hoạt động, chẳng hạn việc nhập khẩu xuất bản phẩm, vẫn không bị ràng buộc bởi Ðiều 32 nói trên...
Dự thảo Luật Xuất bản cũng còn những nội dung cần được xác định rõ thêm, như xác định nội hàm khái niệm "kinh doanh đặc thù" của hoạt động xuất bản, để từ đó định hướng rõ những gì cần được Nhà nước bảo trợ, cần quản lý, những gì có thể nới rộng cho các hoạt động kinh doanh...
Làm được như thế sẽ có thể khai thác, phát huy thêm mặt kinh tế của hoạt động xuất bản mà lâu nay nhiều khi chưa được chú ý đúng mức. Bởi vì, xuất bản còn là một ngành công nghiệp có thể đưa lại nhiều thu nhập. Như vậy, có thể chống được sự "nhập nhằng" ở một số nơi nào đó vừa nhận được sự ưu đãi của Nhà nước, vừa bắt người đọc phải chấp nhận giá xuất bản phẩm quá cao.
Về quy định những cơ quan, tổ chức được thành lập nhà xuất bản, phải chăng còn bỏ sót một số tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp xuất bản và truyền bá tác phẩm của mình tới công chúng?
Ðiều cuối cùng muốn bàn ở đây là về phạm vi điều chỉnh của dự luật. Dường như đây mới chỉ là luật của xuất bản và phát hành bằng phương thức cổ điển. Trong khi đó thực tiễn đang chứng kiến sự phát triển sôi động mang tính bùng nổ của in-tơ-nét. Chính những siêu xa lộ thông tin này đang hằng ngày chuyển tải hàng triệu trang tin và hình ảnh, âm thanh vượt qua mọi biên giới hữu hình của các quốc gia, chứa đựng những nội dung, quan điểm, thị hiếu thẩm mỹ hết sức khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, cùng lúc tác động đến hàng triệu con người.
Không thể phủ nhận rằng, Internet đang là một nhân tố quan trọng của cuộc sống hiện đại, tác động lớn việc hình thành quan điểm, nhân cách, lối sống, thị hiếu của con người ngày nay. Nếu biết cách nắm bắt và sử dụng thì Internet sẽ là lợi khí giúp đẩy nhanh tốc độ phát triển của một quốc gia.
Nhà nước Việt Nam đã tham gia một số cam kết quốc gia về ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. Song vì còn mới mẻ nên hiện chúng ta mới chỉ có những văn bản dưới luật về quản lý, sử dụng Internet, vừa chưa đầy đủ, vừa thiếu sức nặng điều chỉnh.
Khoảng trống pháp luật ấy không thể để quá lâu. Trong khi chờ nghiên cứu xây dựng một đạo luật riêng thật hoàn chỉnh về lĩnh vực này, trước mắt, cần bổ sung ngay một phần hoặc chương riêng về Internet trong Luật Xuất bản.
Tin liên quan:
* Nâng cao chất lượng của hoạt động xuất bản