Lối rẽ nào cho sinh viên bị thôi học?

Ngành CNTT Trường<br>ĐH Bách khoa TP Hồ Chí Minh<br>có tỷ lệ SV rơi rụng khoảng 50%<br>so với tổng số SV đầu vào.
Ngành CNTT Trường<br>ĐH Bách khoa TP Hồ Chí Minh<br>có tỷ lệ SV rơi rụng khoảng 50%<br>so với tổng số SV đầu vào.

Lãng phí nhiều mặt!

Chỉ ước tính riêng ở hệ đào tạo chính quy, mỗi năm đã có khoảng 100.000 HSSV các trường ĐH, CĐ và THCN thuộc diện phải “ra trường sớm”. TS Lê Vinh Danh, hiệu phó Trường ĐH bán công Tôn Đức Thắng, cho biết tỷ lệ SV tốt nghiệp đúng thời hạn (tính số SV tốt nghiệp trên tổng số SV đầu vào) của trường này ngành cao nhất là 40%, ngành thấp nhất chỉ có 8%. Tính chung, tỷ lệ SV học yếu kém, nợ quá nhiều, thuộc diện bị buộc thôi học hằng năm khoảng 10% tổng số SV toàn trường.

Nhưng đây chưa phải là trường hợp cá biệt. Tỷ lệ SV được nhận bằng tốt nghiệp ở các trường ĐH chỉ khoảng 60-80%, ở các trường CĐ 55-60%. Nếu chỉ tính ở mức bình quân khá lý tưởng là 70% thì nghĩa là cứ 10 SV đầu vào đến đầu ra chỉ còn... bảy! Theo tỷ lệ này, với khoảng gần 200.000 chỉ tiêu tuyển sinh ĐH, CĐ hằng năm, số SV "giữa đường gãy gánh" ít nhất cũng ở khoảng 50.000 người.

Ở bậc THCN, sự rơi rụng còn nhanh và nhiều hơn. Nếu tính hiệu suất đào tạo (đầu vào và đầu ra) ở mức trung bình 60% thì với khoảng 150.000 chỉ tiêu chính quy hằng năm, cả nước sẽ có hơn 50.000 người không nhận được bằng tốt nghiệp THCN.

Theo phân tích của TS Lâm Mai Long, hiệu phó Trường ĐH Sư phạm kỹ thuật TP Hồ Chí Minh, 10% SV rơi rụng mỗi năm cũng có nghĩa là mỗi năm xã hội phải mất khoảng 10% kinh phí đào tạo. Đây hẳn nhiên là những con số không nhỏ. Nhưng sự lãng phí đáng xót xa hơn lại ở chính những bạn trẻ phải bỏ học dở dang. Họ đã đánh mất nhiều tháng năm tuổi trẻ, mất niềm tin và mang mặc cảm tâm lý thất bại hết sức nặng nề, khó có thể tiếp tục học và làm việc tốt. Và hệ quả mà xã hội phải hứng chịu cũng nặng nề không kém khi mỗi năm phải gánh thêm hàng trăm nghìn người trẻ “vô công rỗi nghề” như thế!

Liên thông xuống hoặc liên thông ngang

Kể từ năm học 2004-2005, Trường ĐH bán công Tôn Đức Thắng đã “môđun hóa” chương trình đào tạo THCN theo hướng kết nối những môn có liên quan thành từng học phần. Kết thúc học phần nào HS được cấp chứng chỉ học phần ấy và với chứng chỉ xác nhận trình độ và tay nghề này, nếu không thể theo học toàn bộ chương trình THCN họ vẫn có thể đi làm.  

Với cách làm tương tự, nhiều trường THCN ở TP Hồ Chí Minh cũng đã cấu trúc chương trình đào tạo THCN liên thông với công nhân kỹ thuật theo hướng bổ túc thêm tay nghề cho người học. Nếu hoàn tất chương trình, người học sẽ có hai bằng THCN và công nhân kỹ thuật bậc 3; nếu bỏ học dở dang họ vẫn có thể dự thi và được chứng nhận bậc thợ để đi làm.

Đó là những giải pháp tích cực từ cấp trường để giảm bớt sự lãng phí trong đào tạo HS THCN và công nhân kỹ thuật. Ở bậc ĐH, CĐ sự lãng phí còn lớn hơn và có lẽ nhu cầu tìm một hướng rẽ của những SV giữa đường gãy gánh còn lớn hơn nhiều.

Làm sao để những SV học hành dở dang này có được một xác nhận nghề nghiệp để làm việc, giảm thiểu sự lãng phí nhân lực cho xã hội? Cần phải có chủ trương mở rộng hình thức đào tạo theo kiểu liên thông xuống hay liên thông ngang đã được nhiều trường đề xuất. Theo đó, những người không có điều kiện học ĐH có thể được chuyển xuống học CĐ, THCN hoặc chuyển sang một ngành học, hệ đào tạo khác phù hợp hơn.

Trên thực tế, nhiều trường ĐH đã giải quyết cho SV thuộc diện bị buộc thôi học được chuyển sang học hệ tại chức hoặc chuyển xuống hệ CĐ, THCN. Giải pháp này nhằm tạo điều kiện cho SV có cơ hội tiếp tục học hành nhưng lại gặp phải quá nhiều vướng mắc. Trước hết, vẫn chưa có quy định pháp lý cho việc chuyển đổi này, và vì thế đương nhiên các trường không có chỉ tiêu đào tạo đối tượng thuộc diện trên. Và khó khăn lớn nhất hiện nay là vấn đề chương trình đào tạo.

Theo TS Lê Vinh Danh, chương trình đào tạo ĐH, CĐ hiện nay không coi trọng chuyện tích lũy khối lượng kiến thức, vẫn nặng hình thức niên chế, quá coi trọng khung thời gian đào tạo. TS Lâm Mai Long cũng dẫn một thực tế rất đáng tiếc, có trường hợp SV chỉ còn thiếu một tín chỉ (15 tiết học) nhưng vẫn bị buộc thôi học vì quá khung thời gian đào tạo theo quy định.

Trong bối cảnh có nhiều ý kiến cho rằng cần phải sàng lọc, siết chặt đầu ra ở bậc ĐH, CĐ để nâng cao chất lượng đào tạo, con số SV rơi rụng chắc chắn sẽ ngày càng lớn. Họ đi đâu về đâu khi không có lấy một mảnh bằng nào lận lưng?

TS Lê Vinh Danh kiến nghị: “Bộ GD-ĐT cần phải nhìn thấy và khuyến khích hình thức liên thông xuống, vì đây là một giải pháp cần thiết để giải quyết tình trạng lãng phí nguồn lực trong đào tạo và giải quyết nhu cầu lớn cho người đi học”. Và như vậy, cần phải chuyển hướng sang đào tạo tích lũy kiến thức thay vì giới hạn thời lượng đào tạo như hiện nay.

Có thể bạn quan tâm