Làng nghề dưới chân núi Lang Biang

Dưới chân núi Lang Biang hùng vĩ, bên dòng suối Ðạ Yòng ở Lâm Ðồng, từ lâu rồi, không còn ai trong các bản làng của bà con người Cơ Ho, người Chu Ru, người Châu Mạ còn nhớ nghề dệt thổ cẩm, làm gọ (nồi gốm) hay srí (nhẫn bạc) của họ ra đời từ khi nào. Những người con của buôn làng chỉ biết "từ khi nằm trong bụng mẹ đã học cái nghề truyền thống" rồi. Nhưng giờ đây, sản phẩm của họ đang khó đứng vững trước sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường...
Người dân ở buôn B'Nơh C tranh thủ dệt thổ cẩm trong mùa nông nhàn.
Người dân ở buôn B'Nơh C tranh thủ dệt thổ cẩm trong mùa nông nhàn.

Xã Lát, huyện Lạc Dương (Lâm Ðồng) là nơi có làng dệt thổ cẩm nổi tiếng B’Nơh C của người Cil, Lạch hình thành từ bao đời nay.  "Ở đây, từ khi còn trong bụng mẹ thì con gái đã phải học cái nghề dệt". Ðó là câu nói của bà Ha Boong (70 tuổi), người được coi là dệt thổ cẩm lành nghề nhất vùng này. Câu nói không chỉ để tôn vinh, mà như muốn cho thấy sự gắn bó máu thịt từ bao đời nay với nghề truyền thống. Vậy mà lâu lâu rồi, con em của họ thảng hoặc mới vận ui - váy truyền thống, trong những ngày hội của buôn làng; hàng may mặc công nghiệp đã len lỏi đến tận vùng sâu, vùng xa như muốn đánh bạt nghề truyền thống của họ.

Trước đây, dệt thổ cẩm thành thạo được xem là một trong những tiêu chuẩn đánh giá đức hạnh của phụ nữ Cơ Ho, Châu Mạ. Nhưng giờ thì hầu như không còn nữa, trong những nếp nhà nép dưới chân núi Lang Biang chỉ còn thấp thoáng vài người già vẫn gắn bó với khung dệt. Bà Ka Hai nuối tiếc: "Ngày mình mới lớn, con gái trong buôn chưa đến tuổi thanh niên đã thành thạo nghề dệt. Bây giờ, cái bụng nó không ưng nữa rồi". Như ở buôn B’Nơh C, có trên năm chục hộ, vốn đều biết dệt thổ cẩm, nhưng những khung dệt truyền thống gần như đã bị lãng quên. Ðể bảo tồn nghề truyền thống độc đáo này, tỉnh Lâm Ðồng đã đầu tư kinh phí để xây dựng một xưởng dệt thổ cẩm ở đây; rồi mở lớp đào tạo nghề, đưa người đi học tập mô hình xưởng dệt ở nhiều nơi, hy vọng sẽ mở ra hướng mới cho nghề truyền thống. Tuy nhiên, sản phẩm thủ công nghệ thuật truyền thống đã có lịch sử hàng trăm năm vẫn bị người trong cuộc thờ ơ, xưởng dệt thì cửa đóng then cài, du khách thì không còn tìm đến. 

Tương tự như thế, khi những buôn làng khác ở Tây Nguyên từng bao đời du canh, du cư thì người Chu Ru buôn Krăng Gọ (xã Próh, thuộc huyện Ðơn Dương) lại chỉ ở dưới chân núi T’rôm Ụ. Ðất và nước thượng nguồn không chỉ giúp bà con định cư, mà còn giúp những bàn tay tài hoa ở vùng quê này làm ra nghề thủ công truyền thống quý giá, đó là nghề gốm. Nhờ nghề làm gốm mà một thời, người dân ở đây có cuộc sống sung túc. Già làng Ya Tuân kể rằng: "Ngày xưa gốm Krăng Gọ nổi tiếng khắp vùng. Mùa khô cao nguyên cũng là mùa nông nhàn, tất cả các gia đình trong buôn đều nổi lửa đốt gốm. Krăng Gọ rộn rã từ buổi tinh sương đến tận cuối chiều nắng xế để có cái kòngọ nấu bồ kết cho phụ nữ gội đầu, có gọkrơ dùng để làm tô ăn cơm, rồi gọa vú cho phụ nữ xuống sông lấy nước". Giờ thì hình ảnh đó đã là quá vãng. Bà Ma Ôn năm nay đã xấp xỉ thất tuần, bà biết làm gọ từ thuở lên mười, là người thợ gốm giỏi nhất còn lại ở buôn Krăng Gọ. Khi tôi hỏi chuyện làng gốm, bà chỉ trả lời vỏn vẹn một câu: "Làng gốm ngày xưa vui lắm!", rồi cúi mặt ẩn giấu một nỗi niềm luyến tiếc.

Chia tay Krăng Gọ, tôi tìm gặp Ya Tuất - nghệ nhân cuối cùng của người Chu Ru biết làm srí - nhẫn bạc, hiện ở thôn Ha Wai (xã Tu Tra, huyện Ðơn Dương). Già làng Ya Tiêng khẳng định: "Hiện nay chỉ có thằng Ya Tuất còn giữ được nghề làm nhẫn bạc của người Chu Ru thôi. Mấy lần nó mở lớp truyền nghề cho thanh niên trong buôn nhưng không thành, bọn nó không chịu học cái nghề này nữa". Làm nghề này khó lắm, con mắt phải tinh, cái đầu phải sáng và cái tay phải lanh thì mới được. Ya Tuất nói. Theo quan niệm của người Chu Ru, srí là vật thiêng liêng biểu hiện cho tình yêu nam nữ. Khi trai gái đã trao nhẫn đính ước cho nhau thì không bao giờ nghĩ đến việc ly hôn. Vòng tròn đầy đặn, chiếc nhẫn tựa vành trăng 16 như một biểu tượng vững bền. Già làng Ya Tiêng nói: "Cái nghề làm nhẫn bạc tuy không làm ra tiền nhiều nhưng nó vẫn là cái nghề. Ðây là truyền thống của người Chu Ru nên cũng không thể bỏ được". Nói vậy, nhưng những người có uy tín trong buôn cũng không thể "bắt" bọn trẻ theo nghề. Giờ thì chỉ còn nhà Ya Tuất vẫn còn đỏ lửa nấu bạc khi mùa màng đã xong và rong ruổi đến các bản làng bán srí phục vụ các gia đình có sơn nữ đến tuổi cập kê chuẩn bị "bắt chồng". Nói về sự mai một của một số nghề truyền thống trong vùng, già làng Tou Prong Dzung, nguyên Chủ tịch Mặt trận xã Ka Ðô (huyện Ðơn Dương) có vẻ đượm buồn: "Giờ thì sản phẩm truyền thống không được bà con buôn làng mang đi trao đổi hàng hóa nữa. May sao, chúng vẫn còn tái hiện qua các lễ hội văn hóa để con cháu hình dung cái sản phẩm tộc truyền của cha ông".

Bên cạnh sản phẩm truyền thống của các buôn làng, thì tranh bút lửa cũng là sản phẩm độc đáo của Ðà Lạt. Sản phẩm của nghệ thuật này nổi danh từ thập niên 80 của thế kỷ trước, và đến nay, những nghệ nhân trứ danh đã "gác bút", chỉ còn họa sĩ Nguyễn Phi Anh - sinh năm 1953, lâu lâu mới làm cho đỡ nhớ nghề. Anh cho biết, trước đây có dạy cho mấy thanh niên nhưng đều không thành. Có lẽ do đây là bộ môn "không sửa sai được" nên họ chán. Bởi chỉ cần một đường bút nung nóng bằng điện bị lệch chuẩn trên chất liệu gỗ bạch tùng là phải làm lại tác phẩm mới. Trong khi một thời tranh bút lửa đã từng theo du khách đến tận trời Âu, thì giờ đây, giới trẻ Ðà Lạt không mấy ai còn biết tới tranh bút lửa nữa. Sản phẩm truyền thống một thời mê hoặc du khách đang dần đi vào ký ức của chính người dân bản địa.

Cuộc sống phát triển và mọi sự đổi thay, làm cho một số yếu tố từng tạo nên các giá trị mang tính cổ truyền rồi đây có thể sẽ không còn nữa. Tuy nhiên, những giá trị từng tồn tại hàng trăm năm trong tâm thức văn hóa, từng góp phần làm nên ý nghĩa của văn hóa cộng đồng vẫn cần được giữ gìn, khôi phục. Nguyên nhân chính dẫn tới sự mai một, lụi tàn của các nghề và làng nghề là do tác động của quá trình đô thị hóa, sự lan tỏa của các sản phẩm văn minh hiện đại, đặc biệt là vấn đề "đầu ra" cho sản phẩm truyền thống. Khi sản phẩm làm ra không có thị trường tiêu thụ, tự thân người sản xuất phải tìm nghề khác để mưu sinh, tâm huyết nghề nghiệp của nhiều nghệ nhân nhạt nhòa dần, thậm chí đành dứt bỏ. Vì thế, ở các làng nghề, hình ảnh của các "truyền nhân cuối cùng" đang ngày càng hiếm hoi. Và bối cảnh đó đưa tới tình trạng phần lớn thế hệ trẻ ở các buôn làng không còn mặn mà với nghề truyền thống, họ muốn tìm một nghề khác thức thời hơn. Thêm nữa, khi người dân chưa sống được với nghề truyền thống và việc sản xuất hàng thủ công tốn rất nhiều thời gian, và khi các cơ quan chức năng chưa có giải pháp thỏa đáng để phát triển nghề truyền thống thì sự thất truyền, mai một là rất khó tránh khỏi. Nhưng, trong quan hệ giữa bản sắc dân tộc và tính tiên tiến, việc khôi phục, phát triển nghề, làng nghề không chỉ giúp tạo nên tính đa dạng của sản phẩm truyền thống hay tôn vinh nét độc đáo của bản sắc văn hóa, mà còn giúp giải quyết việc làm, tăng thu nhập và nâng cao mức sống của đồng bào. Vấn đề mấu chốt vẫn là "đầu ra" cho sản phẩm, như ý kiến của bà Nguyễn Thị Nguyên - Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lâm Ðồng.

Nhiều năm qua, được sự quan tâm của Ðảng, Nhà nước và chính quyền địa phương, đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã có nhiều chuyển biến rất đáng kể. Và mới đây, chương trình xây dựng nông thôn mới thật sự mở ra diện mạo mới trên những con đường của buôn làng. Tỉnh Lâm Ðồng đã có nhiều nỗ lực trong việc khôi phục các làng nghề, lễ hội văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc bản địa, tổ chức lớp dạy đánh chiêng, sử dụng nhạc cụ dân tộc, duy trì tổ chức lễ hội văn hóa các dân tộc hằng năm,... nhằm làm sống dậy những giá trị văn hóa được hun đúc từ ngàn xưa trên mảnh đất này. Hằng năm, tỉnh Lâm Ðồng đều có các chương trình khuyến công, khuyến nông để hỗ trợ các làng nghề và qua hai Festival tổ chức tại Nhật Bản (2008 - 2009), tỉnh đã đưa sản phẩm dệt thổ cẩm giới thiệu và được công chúng hâm mộ. Theo Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Ðồng, thì vấn đề là phải nghiên cứu để bảo tồn, phát huy cái gì chứ không phải tất cả. Có khu vực để bảo tồn, phát huy chứ không phải bắt đồng bào dân tộc họ phải sống như vậy. Ví như bà con sinh sống trong những ngôi nhà xây nhưng vẫn có khu nhà dài, nhà sàn riêng để tái hiện văn hóa truyền thống. Vì thế, chính quyền sẽ giúp bà con nâng cao chất lượng sản phẩm, để từ đó tìm "đầu ra". Ðể các làng nghề truyền thống phát triển và các sản phẩm văn hóa truyền thống đến được với công chúng, điều thiết yếu là phải xây dựng được một chiến lược bền vững cho các làng nghề. Ðể Ðà Lạt ngày càng hấp dẫn du khách, bên cạnh những yếu tố khác, địa phương cần tận dụng thế mạnh của các làng nghề thủ công truyền thống, tạo thành chuỗi du lịch khám phá, chứ không thể dựa vào sự ưu đãi của thiên nhiên. Nếu được vậy, nguồn tiêu thụ các sản phẩm thủ công truyền thống sẽ được mở ra. Khi đó trên những con đường vào buôn lại tấp nập người qua, kẻ lại; tiếng thoi lại nhịp nhàng, và bếp lửa của Ya Tuất, của Ma Ôn lại rực hồng... Buôn Krăng Gọ, Ha Wai hay B’nơh C sẽ trở thành điểm đến độc đáo trên hành trình khám phá nét đẹp văn hóa Tây Nguyên.

Có thể bạn quan tâm