Lạm phát tăng đến hai chữ số - giải pháp kiềm chế?

Động thái lạm phát theo tháng

Xem xét lạm phát theo tháng trong các năm từ 2002-2006, dễ nhận ra một “thông lệ”: tốc độ lạm phát hai tháng đầu của năm bao giờ cũng là cao nhất. Điều này dễ hiểu vì đây là hai tháng Tết, tiêu dùng của người dân cao vọt lên. Đến tháng 3 lạm phát giảm, rồi tăng lên ở các tháng sau đó. Trong năm năm này, lạm phát ở các tháng cuối năm, từ tháng 8 đến tháng 12, thường cao hơn các tháng trước đó (tháng 6 và 7), trừ một trường hợp ngoại lệ vào năm 2004. Liệu năm 2007 có là ngoại lệ thứ hai của xu hướng này?

Nguyên nhân lạm phát của bảy tháng đầu năm

Cũng như nhiều nước trên thế giới, Việt Nam thường sử dụng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để biểu thị mức độ lạm phát. Việc so sánh lạm phát giữa hai nước, vì thế, là so sánh chỉ số CPI. Có một điểm cần lưu ý: cơ cấu “rổ hàng hóa” để tính CPI của các nước là khác nhau; do vậy cùng một hiện tượng giá cả (thí dụ giá xăng dầu thế giới tăng) sẽ tác động khác nhau đến CPI của các nước. Đề cập đến cấu trúc rổ hàng hóa để tính CPI và sự khác nhau giữa cấu trúc này là nhằm phân tích nguyên nhân cụ thể của lạm phát; đồng thời, trả lời câu hỏi: tại sao cùng phải chịu, thí dụ, giá nguyên liệu đầu vào thế giới tăng mà lạm phát ở Việt Nam lại cao hơn ở nước khác, chẳng hạn, Trung Quốc, Thái-lan?

Để xem xét nguyên nhân của lạm phát, chúng tôi tạm chia các mặt hàng trong rổ hàng hóa thành hai loại: loại “có thể thương mại” (tradeable) và loại “không thể thương mại” (non-tradeable).

Loại “có thể thương mại” gồm các hàng hóa và dịch vụ có thể được mua từ nước khác nếu giá trong nước của mặt hàng đó cao hơn so với giá các nước khác (có tính đến chi phí vận chuyển). Chẳng hạn, nếu giá gạo của Việt Nam cao hơn so với giá gạo của Trung Quốc, người tiêu dùng có thể mua gạo của Trung Quốc.

Loại “không thể thương mại” gồm các mặt hàng không thể nhập khẩu để bán cho người tiêu dùng trong nước cho dù giá trong nước cao hơn giá cũng mặt hàng này ở nước ngoài. Chẳng hạn, giá nhà ở của Việt Nam cao hơn thì cũng không thể mang nhà từ Trung Quốc sang bán được (do không thể di chuyển), hoặc giá thuốc lá của Việt Nam cao thì cũng không thể nhập khẩu thuốc lá rẻ từ Trung Quốc (do Chính phủ Việt Nam cấm nhập khẩu thuốc lá).

Trong bảy tháng đầu năm 2007, lạm phát tăng 6,19%, trong đó, lương thực tăng 6,13%, thực phẩm: 9,78%, nhà ở, vật liệu xây dựng: 9,03%, đồ uống và thuốc lá: 3,95%.

Trong hàng loạt căn nguyên tăng giá, có thể kể ra những căn nguyên chính sau đây.

Thứ nhất, tình trạng dịch bệnh gia súc, gia cầm và vàng lùn (lúa) nghiêm trọng, cộng với thời tiết không thuận lợi, trong khi việc nhập khẩu các mặt hàng này bị hạn chế, đã làm giảm mạnh nguồn cung lương thực, thực phẩm, đẩy giá lương thực thực phẩm tăng cao.

Thứ hai, giá một số hàng hóa đầu vào cơ bản trên thế giới tăng mạnh, đặc biệt là giá xăng dầu, than đá (xuất khẩu), phôi thép... Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao làm tăng khối lượng nhập khẩu các loại đầu vào cơ bản này. Đồng thời, việc tăng mạnh xuất khẩu than khi giá than xuất khẩu tăng cao cũng gây hiệu ứng tăng giá.

Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước mua 7 tỷ USD, tương đương với việc “ném” ra thị trường hơn 100.000 tỷ đồng (hơn 10% GDP), tạo nên sức “cầu kéo” rất mạnh đối với giá cả.

Trong số các nguyên nhân tăng giá nêu trên, có những nguyên nhân “đặc thù” Việt Nam - cơ cấu “rổ hàng hóa” tính CPI, chủ trương hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng để giải tỏa căng thẳng cung cầu, “bơm” tiền quá mạnh. Những nguyên nhân này giải thích tại sao lạm phát ở Việt Nam, trong những hoàn cảnh cơ bản không khác nhiều lắm so với một số nước, lại đạt mức cao hơn đáng kể (xem bảng).

Đây là điểm phải được tính kỹ trong quá trình tìm kiếm và lựa chọn các giải pháp ứng phó với lạm phát ở nước ta. Đơn giản là vì ngoài những yếu tố khách quan gây tác động tăng giá mạnh nằm ngoài tầm khống chế của Chính phủ (giá cả trên thị trường thế giới, thiên tai bệnh dịch), thì những nguyên nhân đặc thù của Việt Nam lại là những yếu tố mà Chính phủ có thể can thiệp và có tác động điều chỉnh.

Dự đoán cho năm tháng còn lại

Tuy có những biến tấu, song đến nay, dấu hiệu suy yếu của các nguyên nhân gia tăng lạm phát vào cuối năm vẫn chưa bộc lộ rõ. Cụ thể:

- Giá thế giới của các yếu tố đầu vào cơ bản của nền kinh tế nước ta như xăng dầu, phôi thép, có khả năng tiếp tục duy trì ở mức cao. Tại thời điểm 31-7-2007, giá dầu giao tháng 9-2007 trên thị trường New York đã đạt mức 78,21 USD/thùng, mức cao nhất kể từ năm 1983.

- Giá lương thực, thực phẩm cuối năm khó giảm, thậm chí có khả năng tăng cao hơn. Nguyên nhân là do thiên tai, dịch bệnh vẫn đang tiếp diễn, làm cho nguồn cung trong nước khó phục hồi, thậm chí còn căng thẳng hơn.

- Về phía cung tiền, có thể nguồn cung như đầu năm (mua ngoại tệ) sẽ bị “cắt”, song nên lưu ý rằng trong bảy tháng đầu năm, giải ngân đầu tư xây dựng cơ bản chỉ mới đạt khoảng 44%. Nghĩa là sẽ xuất hiện xu hướng “dốc sức” đầu tư vào cuối năm. Điều này càng đúng khi mục tiêu tăng trưởng sáu tháng cuối năm phải đẩy lên mức ít nhất 9% (so sánh: chỉ số tăng GDP - lạm phát của sáu tháng đầu năm là 7,87% - 6,19%).

Như vậy là có cả những lý do khách quan lẫn những động cơ bên trong duy trì sức “cung đẩy - cầu kéo” lạm phát mạnh vào cuối năm. Những yếu tố này cơ bản vượt ra ngoài tầm khống chế (trực tiếp) của Chính phủ. Dưới sự tác động của chúng, cộng với cái thông lệ tăng giá theo thời gian, có cơ sở để dự tính khả năng lạm phát cả năm đạt mức hai chữ số. Đây là một khả năng khách quan, không thể làm ngơ hay phủ nhận nó.

Cần và có thể làm gì?

Với những lập luận ở trên, có lẽ điều trước tiên phải tính đến cho năm tháng cuối năm là khả năng lạm phát lên mức hai con số. Phải nói rằng đây là một khả năng mang tính hiện thực cao. Cần dự liệu tình huống này để chuẩn bị sớm các giải pháp ứng phó với lạm phát một cách tích cực. Lạm phát sẽ đỡ nguy hại rất nhiều một khi nó trở thành “lạm phát được dự kiến”. Nếu không sẵn sàng thì nguy cơ sinh ra vòng xoáy bất ổn định là rất lớn. Đây là điều Chính phủ cần tính đến quyết liệt, càng sớm càng tốt, thay vì chỉ chuẩn bị một khả năng duy nhất là nỗ lực tối đa để kéo lạm phát xuống mức mục tiêu đã định. Đứng trước khả năng lạm phát tăng cao mà chỉ cố “kéo ghì” nó xuống thấp để đạt mục tiêu đã định, bất chấp các cơ sở khách quan thực tế thì hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu sẽ là khó lường.

Tuy nhiên, tại thời điểm hiện nay, vẫn chưa đủ cơ sở để coi đó là phương án “chủ”. Tính đến khả năng lạm phát đạt mức hai chữ số, song nhiệm vụ đặt ra là phải tìm mọi cách để giảm tốc độ tăng giá trong những tháng còn lại của năm. Mục tiêu hàng đầu vẫn là đạt “mục tiêu” lạm phát mà Quốc hội đã thông qua. Để đạt được mục tiêu đó, trong bối cảnh hiện nay, các giải pháp tất nhiên là phải rất quyết liệt. Chính phủ mới đang hành động theo hướng này. Hàng loạt biện pháp sẽ được áp dụng như: đẩy mạnh sản xuất để giảm căng thẳng cung cầu; điều chỉnh vốn các dự án triển khai chậm và chưa mang lại hiệu quả ngay; kiểm soát tín dụng để giảm cung tiền; tổ chức phát hành trái phiếu Chính phủ để “hút” tiền; giảm thuế nhập khẩu và tạo điều kiện dễ dàng để nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu; tích cực chống thiên tai, dịch bệnh... Về tổng thể, đây là bộ giải pháp toàn diện, đúng hướng và đúng cách để giải quyết mối quan hệ tăng trưởng và lạm phát trong mấy tháng cuối năm. Tuy nhiên, do nguy cơ lạm phát tăng cao là rất lớn, nên cũng cần sớm tính đến khả năng phải sử dụng một số giải pháp tình thế mạnh. Đó là:

- Cắt giảm chi tiêu Chính phủ. Đây là biện pháp cấp thời, quyết liệt trong trường hợp lạm phát “nóng” lên nhanh.

- Dùng các công cụ chính sách tiền tệ mạnh để “hút” tiền khỏi lưu thông: nâng mức lãi suất, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

- Giảm thuế nhập khẩu cho những sản phẩm then chốt như xăng dầu, phôi thép; cần thiết thì phải nới lỏng nhập khẩu một số sản phẩm lương thực - thực phẩm quan trọng để bình ổn thị trường.

Điều cuối cùng cần nói là lạm phát ở nước ta vẫn đang nằm trong tầm kiểm soát. Hơn thế, chúng ta cũng đã tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm chống lạm phát trong những năm qua, rất có thể là đặc biệt hữu ích tại thời điểm này. Lạm phát là không đáng sợ, nhất là khi nó được “đưa về” lạm phát có thể dự báo. Nếu được như vậy, trong một giới hạn nhất định, lạm phát còn giúp nâng cao tính hiệu quả của nền kinh tế (“loại bỏ” các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả), đồng thời, đóng vai trò là công cụ tốt để thúc đẩy tăng trưởng. Đồ thị 2, với việc chỉ ra tương quan lạm phát - tăng trưởng GDP từ 1986 đến nay, phần nào làm sáng tỏ nhận định đó.

Đứng trước khả năng lạm phát tăng cao mà chỉ cố “kéo ghì” nó xuống thấp để đạt mục tiêu đã định, bất chấp các cơ sở khách quan thực tế thì hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu sẽ là khó lường.

Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam và các nước trong khu vực

  Việt Nam Trung Quốc Thái Lan Malaysia Indonesia
5 tháng đầu năm 2007 4,3% 2,9% 1,7% 2,2% 1,8%
Năm 2006 6,6% 1,7% 3,5% 3,2% 6,6%
Năm 2005 8,4% 1,8% 4,5% 3,1% 10,5%

Nguồn: Ngân hàng Phát triển châu Á và số liệu chính thức từ cơ quan thống kê của các nước

Có thể bạn quan tâm