Làm một hạt bụi yên vui

Bây giờ đã là tháng Mười Hai rồi. Tháng cuối cùng của năm. Và đây là bài viết cuối cùng của tôi trên chuyên mục này. Một chuyên mục mà tôi rất tâm đắc với tinh thần “sống trong đời sống” của nó - kiểu như tôi và bạn, giữa những bộn bề, dành ra một chút thong dong để ngắm nhìn, cảm nhận, suy nghĩ, hướng tâm trí tới những điều giản dị khiến lòng ta yên ả hơn.
Minh họa: LÊ THIẾT CƯƠNG
Minh họa: LÊ THIẾT CƯƠNG

Như là trong buổi sáng hôm ấy, còn sớm, tôi bước ra ngoài cánh cửa gỗ đã cũ kỹ lắm rồi, mỗi lần đẩy ra đóng vào lại kêu cọt kẹt.

Bao phủ ngôi làng trong thung lũng là màn sương dày như mưa, bay bay ướt đẫm. Con đường nhỏ và hơi dốc, một bụi cây dại trổ hoa mầu vàng cam rủ xuống lối đi. Phía trên cái chùm vàng cam ấy, nhấp nhô những mái lá cọ đã hoai mục, vô số hạt cỏ đang nảy mầm. Không cần đợi đến mùa xuân đâu, chỉ cần hơi ẩm trong không gian và những ngọn khói ấm áp cất lên, cỏ đã nảy mầm. Tất nhiên, mai kia rét hơn, rét căm căm ra, chúng sẽ lại lụi đi. Tôi đã đến đây nhiều lần. Tôi xem mọi ngôi làng miền núi là nhà của mình, với những người thân, rất nhiều người thân.

Tôi đứng lặng yên dưới vòm hoa hơi hăng hắc ấy, nghe thấy tiếng những hồi ức với chút gì thảng thốt ở quanh đây. Cái hôm nào đó, tôi vác bó củi ngược dốc, bố đi sau: Thúy ơi, có nặng quá không con? Để xuống bố khiêng cùng không thì gãy lưng con mất. Nhưng mà tôi vẫn cắm cúi leo dốc. Tôi không trả lời bố. Tôi phải để dành cả hơi thở để vác bó củi quả là rất nặng về nhà.

Sau lưng tôi, sau lưng bố, sâu lắm, sông chảy yên ắng bằng dòng nước buốt giá.

Ở đây thì xa dòng sông, nhưng có một con suối to chảy qua làng. Trời lạnh nhưng mấy con vịt vẫn bơi lội sục mỏ kiếm ăn. Một người đàn ông đi xe máy ngược lên, thấy tôi ông ấy dừng lại: Mới về hả cháu? Vâng, cháu chào chú ạ. Chú đi đâu về sớm thế? Mang rượu sang nhà em cậu. Hôm nay cưới con trai nó.

À, tôi nhớ ra chiều hôm trước thấy bà vợ ông ấy đang canh nồi rượu. Một nồi rượu to, chưng cất theo lối truyền thống. Hơi nước trong nồi rượu ủ kỹ bốc lên, ngưng tụ bởi nồi nước lạnh bên trên và chảy vào can theo một cái ống nhựa nhỏ. Phần ráp nối giữa nồi cơm rượu bên dưới và nồi nước lạnh bên trên được bít bằng đất sét. Mùi rượu thơm thơm. Bà vợ ngồi canh bên bếp lửa đun bằng củi gộc. Gương mặt bà buồn buồn, cái khăn len mầu xanh chít trên đầu dính đầy tàn tro. Nghe nói bà đã từng mất con. Đứa trẻ đã từ biệt bà khi chưa kịp cất tiếng khóc chào đời. Từ đấy, họ cùng nhau già đi, trồng một vườn cam và nấu rượu bán cho người làng, thi thoảng bán ra ngoài thị trấn. Một cuộc sống thật là yên lặng, không có sóng gió nào nữa, cũng không có niềm hạnh phúc nào vỡ òa.

Bà nhấc vòi rượu ra khỏi can, ghé cái chén vào, được nửa chén thì lấy ra đưa cho tôi: Uống thử một tí xem có ngon không.

Thì uống thôi. Ngon hay không đôi khi chẳng quan trọng mấy, như là lúc này, tôi thích cái mùi rượu thơm thơm, có lẫn mùi khói, lẫn mùi hương hăng hắc của vạt hoa đang trổ bông ngoài hàng rào. Rượu cuối nồi, nhẹ, hơi chua.

Tôi có lẽ là gương mặt quen của cả ngôi làng này vì nhà nào tôi cũng từng vào, cũng từng trò chuyện dăm ba câu. Vài người đoán tôi sắp làm dâu ở đây, vào một gia đình goá vợ nào đấy. Tất nhiên chẳng ai hỏi, tôi cũng không giải thích.

Dưới ao mấy con cá quẫy khẽ, mặt nước ồn ào một chút rồi phẳng lặng trở lại. Những cơn gió đông lùa dưới gầm sàn, đẩy ngọn lửa bạt về một phía. Chén rượu vẫn ở trong tay tôi, vẫn ấm ấm và phả ra mùi thơm. Uống đi! Bà chủ nhà giục. Xong rồi ở lại ăn cơm tối, nếu chưa có chỗ ăn, nhé!

Tôi mỉm cười. Lúc nào mà tôi chẳng có chỗ ăn, bất cứ gian bếp nào trong ngôi làng này. Tôi chỉ cần bước lên, nói một câu: Cho cháu ăn cơm với nhé! Thế thôi, rồi đến bữa khắc có thêm bát, thêm đũa. Mùa này có cơm mới, thơm lắm. Chao ôi là cơm mới. Gạo mới nhiều nhựa, dễ bén nồi, khi vần ở bếp phải xoay liên tục vì nó cháy rất nhanh. Cơm mới ăn với cá kho dưa và một bát canh rau cải bốc khói thơm lựng mùi gừng đập dập. Có lẽ nếu sau này được đi khắp thế giới, tôi cũng sẽ chọn đấy là bữa ăn ngon nhất.

Ngày xa xưa ấy mẹ tôi cũng hay kho cá với dưa. Cá thì ít dưa thì nhiều. Một nồi đầy những dưa là dưa. Mấy anh em chúng tôi bữa nào có cá cũng đánh bay nồi cơm mà khi nấu mẹ đã phải múc thêm nửa bơ gạo. Mẹ tôi cũng hay nấu rượu. Tôi thường làm giúp mẹ một việc là giã những nắm men cho tơi vụn ra, rồi đến khi cơm trên cái mẹt đã nguội thì rắc men lên và trộn thật đều. Trộn xong thì cho vào chum, bịt thật kín, lấy cả dây cao-su thắt cái miệng chum lại. Những chum ủ rượu ấy xếp thành dãy ở hè sau nhà... À, tôi còn giúp mẹ trét những nắm đất dẻo lên quanh khớp nối giữa hai cái nồi cho thật kín nữa.

Công việc chính của tôi ở nhà là đi lấy củi. Củi để nấu cơm, để nấu rượu. Cái lần leo ngược dốc vác bó củi to ấy là lần tôi với bố đi dọn lán người ta đào vàng. Người tứ xứ đến làng tôi đào vàng. Đào dưới bờ sông, đào trong những khu vườn, đào sâu trong chân núi. Những cái giếng vàng, hầm vàng sâu hoắm, thiếu oxy nên chỉ có thể dùng đèn pin chiếu sáng. Hết vàng người ta bỏ đi, tôi với bố dỡ những cái lán được dựng bằng tre, nứa, gỗ ấy xuống, vác về nhà.

Người ta bỏ đi rồi, còn lại là bờ sông lở loét đỏ ối, những lỗ thủng lớn, những bức ta-luy vụn vỡ. Dòng sông thân thương của tôi, bờ sông và những vách ta-luy phải mất đến 30 năm để phục hồi.

Một cây hồng rụng hết lá, quả trên cành đỏ ối hiện ra. Có lẽ vì nó cao quá nên chiều hôm trước đi dưới gốc của nó tôi cũng không nhận ra, mà phải lúc này, đứng ở trên triền dốc nhìn xuống thung lũng mới thấy. Ôi cây hồng. Tôi chưa từng thấy thứ cây ăn quả gì đẹp đến như thế vào mùa đông miền núi. Lá nó rụng hết. Suốt tuổi thơ của tôi mỗi mùa đông đều là mùa quét lá cây hồng. Cây hồng nằm ở góc sân, nó bằng tuổi tôi. Bố tôi trồng năm tôi ra đời. Từ lúc bảy, tám tuổi tôi bắt đầu tự đánh dấu chiều cao của mình lên thân cây hồng. Tôi cứ nghĩ rằng chỉ có tôi lớn còn cây hồng thì không, nên năm sau tôi không cách nào hiểu được tại sao quần áo mình mặc cứ bị cộc đi trong khi không thể khắc vết mới lên cây. Vết khắc năm trước vẫn cứ ở đỉnh đầu tôi.

Vào mùa thu, lá hồng bắt đầu chuyển mầu. Vàng, rồi đỏ. Rồi bắt đầu rụng. Sáng nào tôi cũng quét lá hồng ra khỏi sân vì nó rụng nhiều lắm. Rụng đến khi không còn một chiếc nào trên cành thì thôi. Chỉ còn quả lúc lỉu, y như cái cây trước mặt tôi kia. Quả thì đỏ chứ. Đỏ thẫm. Cái màu đỏ của những quả hồng thật sự đẹp đến ngẩn người vì nó nổi bật trên nền xám tro của những mái nhà. Vẻ đẹp im lìm và có chút gì buồn tẻ, chút gì kiêu hãnh.

Nhìn cây hồng và ngoái lại ngôi nhà có nồi rượu thơm chiều qua, người đàn ông đang buộc thêm hai can rượu nữa lên xe máy. Bà vợ đứng giữ xe. Giữ làm vì thôi chứ cái xe đã được dựng chắc chắn rồi, vả lại nếu nó đổ thì bà cũng chịu. Cặp má đã hồng hơn chiều qua, có lẽ vì vừa từ bếp ra hay vì điều gì đó khác nữa, ai mà biết được. Nhưng gương mặt vẫn buồn buồn y như thế, đôi mắt như có một làn khói phủ lên. Như cây hồng, lá đã rụng hết rồi, nhưng bà ấy chẳng có quả nào giữ lại để làm vui cho cuộc đời này.

Người đàn ông đã chằng buộc xong, lay lay mấy cái để kiểm tra rồi đẩy xe về phía trước cho chân chống bật lên. Ông nói gì đó, bà vợ gật đầu. Ông lại nói gì đó, bà lại gật. Ông đưa tay phủi mấy miếng tàn tro vương trên khăn của bà rồi lên xe.

Tôi đứng nép vào một bên để chiếc xe máy nặng nề chạy qua. Ông ấy mỉm cười lần nữa. Nụ cười chất phác trên gương mặt phẳng lặng.

Tôi là tôi khi tôi ở đây hay ở bất kỳ ngôi làng miền núi nào. Tôi thuộc về những ngôi làng miền núi hay là những ngôi làng luôn dành cho tôi một chỗ nhỏ bé đủ để suy nghĩ, cũng thế cả. Xét cho cùng, mỗi chúng ta chỉ là một hạt bụi thôi nếu so với trái đất đã đầy lên tám tỉ người. Làm một hạt bụi yên vui như ông chồng hay một hạt bụi phảng phất muộn phiền như bà vợ, đều là cách mà người ta đã chọn để sống trong đời sống này.

Xin tạm biệt bạn đọc thân mến của chúng tôi. Chúc bạn luôn an vui trong đời!

Có thể bạn quan tâm