Làm mẹ sau 17 năm hiếm muộn, 6 lần thụ tinh ống nghiệm thất bại

NDO - 17 năm sau ngày cưới, 6 lần thụ tinh ống nghiệm thất bại, chị N.T.V bật khóc khi được làm mẹ ở tuổi 42. Tiếng khóc của đứa con đầu lòng đã xoa dịu đi 17 năm chịu nhiều đắng cay, mất mát, thất vọng trong cuộc đời chị V.
0:00 / 0:00
0:00
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hoàng đang chọc hút noãn cho người bệnh.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hoàng đang chọc hút noãn cho người bệnh.

3 năm sau ngày cưới, chị V. mới nghĩ tới chuyện đi khám sức khỏe sinh sản vì quá lâu không có thai. Năm 2010, chồng chị được bác sĩ kết luận không có tinh trùng trong tinh dịch do tắc ống dẫn tinh. "Tôi cũng mang dị tật tử cung hai sừng nên khó có thai tự nhiên", chị V. nghẹn ngào nói.

Chị V. được kích trứng làm thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) với tinh trùng của chồng thu được sau kỹ thuật PESA (chọc hút tìm tinh trùng qua mào tinh hoàn). Mặc dù hai lần làm IVF/PESA họ thu được nhiều tinh trùng, trứng, tạo được nhiều phôi nhưng 3 lần chuyển phôi không thành.

Liên tiếp 5 năm sau, vợ chồng đến hai cơ sở y tế khác làm IVF 2 lần, chuyển phôi 3 lần vẫn thất bại. Thất bại liên tiếp khiến chị nghĩ mình đã không có cơ hội làm mẹ.

Năm 2020, trong niềm hy vọng cuối cùng, anh chị đến Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội (IVFTA) khám sức khỏe toàn diện. Bác sĩ chỉ định làm PESA-ICSI (chọc hút mào tinh thu tinh trùng và tiêm tinh trùng vào bào tương noãn) tạo được 7 phôi ngày 3.

Trước khi chuyển phôi, chị V. được phẫu thuật cắt vách ngăn, tái tạo lại buồng tử cung. Niềm vui cuối cùng đã tới ngay sau lần chuyển phôi đầu tiên. Trong quá trình mang thai, chị nhiều lần bị dọa sảy, phải nhập viện giữ thai. Trải qua bao ám ảnh, stress, chị đã vượt cạn thành công, sinh bé trai nặng 3,2kg vào năm 2021.

Tháng 3/2024, vợ chồng trở lại IVFTA sinh thêm con, may mắn đậu thai ngay sau lần chuyển phôi đầu. Hiện thai nhi khoảng 8 tuần, phát triển bình thường.

Cũng như chị V., chị T.H.T đã có 9 năm ngóng tiếng trẻ thơ. Vợ chồng chị từng theo đuổi hành trình 4 năm “tìm con” nhờ kỹ thuật thụ tinh nhân tạo (IUI) và IVF ở 2 cơ sở y tế nhưng 3 lần chuyển phôi đều thất bại.

Năm 2023, chị T. đến IVFTA, bác sĩ chỉ định chị T. nội soi buồng tử cung tìm nguyên nhân chuyển phôi thất bại liên tiếp nhiều lần. Bác sĩ phát hiện chị bị viêm niêm mạc tử cung mạn tính, một bệnh lý nhiễm trùng gây ảnh hưởng đến chất lượng phôi, giảm tương tác giữa phôi và nội mạc tử cung, khiến phôi thai làm tổ thất bại hoặc ngừng phát triển sớm.

Sau khi điều trị ổn định tình trạng viêm nội mạc tử cung, chị T. được kích hút trứng theo phác đồ cá nhân hóa, thực hiện IVF, phôi được nuôi cấy trong hệ thống tủ theo dõi động học timelapse tích hợp trí tuệ nhân tạo AI, thu được 2 phôi nang chất lượng tốt. Tháng 8/2023, bác sĩ chuyển một phôi vào buồng tử cung, giúp chị T.có thai. Tháng 5/2024, chị hạ sinh một bé trai nặng 2,5kg bằng phương pháp mổ.

Tại IVFTA, có tới 70% là trường hợp đến khám hiếm muộn là các ca bệnh khó, vợ chồng nhiều tuổi, nhiều bệnh lý nền, tiền sử sản khoa nặng nề, từng thất bại chuyển phôi nhiều lần ở các trung tâm, bệnh viện hiếm muộn khác.

Bộ Y tế thống kê, hiện cả nước có khoảng một triệu cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn, trong đó vợ chồng dưới 30 tuổi chiếm tới 50% trường hợp. Nguyên nhân vô sinh có thể do vợ hoặc chồng, cùng chiếm tỷ lệ 40%, 10% do cả hai và 10% còn lại chưa rõ nguyên nhân. Nhiều bệnh lý gây vô sinh không biểu hiện triệu chứng rõ ràng nên khó nhận biết.

Thầy thuốc nhân dân, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hoàng, Giám đốc Trung tâm IVFTA cho biết, nguyên nhân dẫn đến tình trạng này rất đa dạng. Thường gặp nhất là chất lượng phôi kém. Các yếu tố đánh giá chất lượng phôi bao gồm độ đồng đều về kích thước phôi, độ phân mảnh bào tương, nhân phôi bào, phôi ngày 3 hay phôi ngày 5…

Ngoài yêu cầu trứng chất lượng, tinh trùng khỏe mạnh, không có bất thường về di truyền (nhiễm sắc thể, gene); môi trường nuôi cấy phôi sau khi thụ tinh hoặc những thao tác vật lý trong quá trình trữ đông, rã đông phôi cũng có thể ảnh hưởng đến chất lượng phôi.

Theo cơ chế chọn lọc tự nhiên của cơ thể người mẹ, khi đưa các phôi thai bất thường vào buồng tử cung, nội mạc tử cung không tạo ra các điều kiện thuận lợi tiếp nhận phôi để nó tiếp tục phát triển.

Những bất thường tại buồng tử cung và nội mạc tử cung như niêm mạc mỏng; viêm niêm mạc tử cung; buồng tử cung có polyp, khối u lạc nội mạc, vách ngăn hoặc dính buồng tử cung… cũng làm giảm khả năng tiếp nhận phôi.

Ngoài ra, bất thường tương tác giữa phôi và niêm mạc tử cung, độ tuổi, yếu tố tâm lý và một số bệnh lý nền của người phụ nữ cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ phôi làm tổ và phát triển trong buồng tử cung.

Bác sĩ Hoàng cho biết, việc điều trị tùy theo nguyên nhân. Các phác đồ tiếp cận khác nhau tùy theo thể trạng, bệnh lý nền, mức độ đáp ứng thuốc, nhu cầu và trải nghiệm của từng người bệnh. Ngoài chỉ định sử dụng thuốc nội tiết, bác sĩ đồng thời cho lời khuyên về chế độ dinh dưỡng, sinh hoạt, vận động khoa học sau chuyển phôi phù hợp và đồng hành hỗ trợ trị liệu tâm lý khi cần thiết. Điều này không chỉ giúp phụ nữ có thai mà còn có thai kỳ an toàn để sinh con khỏe mạnh.

Do đó, Phó Giáo sư Lê Hoàng khuyến cáo, vợ chồng kết hôn sau một năm không có con (6 tháng nếu tuổi vợ trên 35) nên đi khám sớm để xác định nguyên nhân và điều trị phù hợp.