Giảm 2% thuế VAT:

Không để doanh nghiệp lúng túng trong thực hiện xác định thuế suất

NDO - Một trong những quyết sách của Quốc hội tại Kỳ họp thứ Năm vừa qua được cộng đồng doanh nghiệp và người dân hết sức mong đợi đó là tiếp tục tiếp tục giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng (VAT) chính thức có hiệu lực từ ngày mai (1/7). Đây là chính sách được quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
0:00 / 0:00
0:00
Dây chuyền sản xuất sợi tại Công ty TNHH Dệt nhuộm Jasan Việt Nam, khu công nghiệp Phố Nối B, tỉnh Hưng Yên. (Ảnh Minh Hà)
Dây chuyền sản xuất sợi tại Công ty TNHH Dệt nhuộm Jasan Việt Nam, khu công nghiệp Phố Nối B, tỉnh Hưng Yên. (Ảnh Minh Hà)

Tránh gây tác động tới quản lý giá một số loại hàng hóa, dịch vụ

Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có ý kiến góp ý với Bộ Tài chính trong việc thực hiện việc giảm thuế VAT nếu không có hướng dẫn cụ thể sẽ tác động tới quản lý giá một số loại hàng hóa, dịch vụ cũng như gây lúng túng cho doanh nghiệp.

Bởi từ ngày mai (1/7), khi thuế VAT giảm từ 10% xuống 8%, doanh nghiệp đã kê khai giá, đăng ký giá (đã bao gồm thuế) không biết có cần giảm giá tương ứng với phần giảm thuế 2% không, doanh nghiệp có cần làm thủ tục kê khai, đăng ký giá đã điều chỉnh không,...

Theo VCCI để tránh rủi ro, lúng túng cho các doanh nghiệp trong việc phân loại hàng hoá, dịch vụ được giảm thuế VAT 2%, nên sử dụng bảng phân loại hàng hoá nhập khẩu theo pháp luật hải quan làm cơ sở để xây dựng các phụ lục của dự thảo nghị định, thay vì Danh mục Hệ thống ngành sản phẩm Việt Nam,...

VCCI cho biết, hiện nay một số loại hàng hoá, dịch vụ đang được áp dụng các biện pháp quản lý giá như Nhà nước định giá, đăng ký giá, kê khai giá và niêm yết giá. Khi chính sách giảm thuế VAT từ 10% xuống 8% vào ngày 1/7/2023 và tăng từ 8% lên 10% vào ngày 1/1/2024 sẽ tác động đến việc thực hiện các biện pháp quản lý giá như trên.

Theo đó, “đối với trường hợp doanh nghiệp đã kê khai giá, đăng ký giá đã bao gồm thuế, có cần phải giảm giá tương ứng với phần giảm thuế 2% không hay vẫn áp dụng giá cũ? Doanh nghiệp có cần làm thủ tục kê khai, đăng ký giá đã điều chỉnh không?”, VCCI đặt vấn đề.

Giảm thuế góp phần kích cầu tiêu dùng

Trong năm 2022, việc thực hiện chính sách giảm thuế VAT 2% đã hỗ trợ doanh nghiệp, người dân khoảng 44.500 tỷ đồng. Qua đó, góp phần giảm giá thành hàng hoá, dịch vụ, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm cho người lao động, góp phần kích cầu tiêu dùng, tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Năm 2023, việc thực hiện chính sách giảm thuế VAT, ước giảm thu ngân sách nhà nước khoảng 24.000 tỷ đồng.

Một số loại hàng hoá, dịch vụ có thể giảm giá 2% khá dễ dàng nhưng một số loại hàng hoá, dịch vụ có giá đã được làm tròn để dễ thanh toán thì việc điều chỉnh giá biên độ nhỏ (2%) sẽ không khả thi. Chẳng hạn, doanh nghiệp bưu chính chuyển phát đã kê khai giá 5.000 đồng/km, nếu phải giảm xuống còn 4.909 đồng/km sẽ rất phức tạp.

Với các lý do đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định hướng dẫn các trường hợp đang được quản lý giá khi giảm thuế VAT, theo hướng doanh nghiệp không cần làm thủ tục điều chỉnh giá và được phép áp dụng giá đã đăng ký, kê khai.

Đáng chú ý, về danh mục hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tượng được giảm thuế VAT, theo ghi nhận việc giảm thuế này gặp một số khó khăn, vướng mắc như cách xác định hàng hoá, dịch vụ giảm thuế VAT. Trong mô tả hàng hoá tại Phụ lục kèm Nghị định 15/2022/NĐ-CP dựa trên Danh mục Hệ thống ngành sản phẩm Việt Nam hiện nay không tương ứng với mô tả hàng hoá tại Danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam.

Điều này dẫn đến khó khăn khi xác định mã HS đối với hàng hoá nhập khẩu tại các phụ lục, đặc biệt là các dòng hàng có mô tả “hàng hoá chưa được phân vào đâu”. Thực tế, cũng có không ít các doanh nghiệp phản ánh với VCCI rằng, việc phân loại hàng hoá, dịch vụ nào được hưởng thuế suất 8% hay 10% theo Nghị định 15/2022/NĐ-CP rất phức tạp và quá nhiều rủi ro.

Nhiều trường hợp hai doanh nghiệp mua bán hàng hoá với nhau nhưng không thống nhất được áp dụng thuế suất 8% hay 10% khiến hợp đồng không thể thực hiện được. Bản thân cơ quan thuế, cơ quan hải quan cũng lúng túng trong việc phân loại hàng hoá, dịch vụ để áp dụng.

Thậm chí, VCCI cho rằng, điều này còn gây nguy cơ nhũng nhiễu, tiêu cực khi doanh nghiệp bị thanh kiểm tra do cơ quan nhà nước có thể diễn giải quy định theo nhiều cách khác nhau. Các doanh nghiệp vì đó không biết mình thực hiện đúng hay sai.

Cần bổ sung thêm các hướng dẫn

Cũng theo VCCI, trong dự thảo bổ sung quy định “Mã HS trong Phụ lục I và Phụ lục III chỉ để tra cứu. Việc xác định mã số HS của hàng hoá nhập khẩu thực hiện theo quy định pháp luật hải quan”. Tuy nhiên, các doanh nghiệp kiến nghị nên sử dụng bảng phân loại hàng hóa nhập khẩu theo pháp luật hải quan làm cơ sở để xây dựng Phụ lục I và Phụ lục III của Nghị định 15/2022/NĐ-CP, thay cho việc sử dụng Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam.

Giải pháp này có thể giúp hàng hóa nhập khẩu dễ dàng xác định được thuế suất, thay vì tình trạng hiện nay là cả hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa trong nước đều gặp khó khăn khi xác định thuế suất. Trong trường hợp không kịp sử dụng bảng phân loại hàng hóa nhập khẩu thì cần liệt kê đầy đủ các mã HS hàng nhập khẩu áp dụng thuế 10%. Nói cách khác, cần loại bỏ toàn bộ các trường hợp ngoại lệ được ký hiệu, VCCI đề xuất.

Liên quan tới trách nhiệm của cơ quan nhà nước, nội dung văn bản Bộ Tài chính tham vấn quy định, các bộ theo chức năng, nhiệm vụ và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo các cơ quan liên quan triển khai tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát để người tiêu dùng hiểu và được thụ hưởng lợi ích từ việc giảm thuế giá trị gia tăng theo quy định.

Với diễn giải như trên, quy định này có thể dẫn đến cách hiểu rằng các bộ và UBND cấp tỉnh sẽ kiểm tra, giám sát xem doanh nghiệp có giảm giá hàng hoá tương ứng với mức giảm thuế hay không.

VCCI đề nghị nói rõ quy định các bộ và UBND cấp tỉnh sẽ kiểm tra, giám sát xem doanh nghiệp có giảm giá hàng hóa tương ứng với mức giảm thuế hay không,… Theo VCCI, điều này không khả thi và cũng không hợp lý bởi giá cả trên thị trường sẽ được quyết định bởi sự thỏa thuận giữa người mua và người bán.