Liên kết sản xuất
Phần lớn diện tích cây cao-su tại Ðông Nam Bộ được trồng chủ yếu bởi các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn Công nghiệp cao-su Việt Nam, cho nên phát triển ổn định, từ khâu canh tác tới chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Khó khăn của người trồng cao-su hiện nay chủ yếu ở các hộ trồng cao-su tiểu điền. Suốt một thời gian dài, giá mủ cao-su lao dốc và chưa có dấu hiệu phục hồi. Ðể đứng vững, nhiều hộ trồng cao-su tiểu điền ở Bình Phước đã liên kết với nhau tạo thành một câu lạc bộ (CLB) với hơn 30 thành viên trong và ngoài tỉnh. CLB đi vào hoạt động đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình từ phía các nhà khoa học cũng như doanh nghiệp. Nhờ vậy, khoa học kỹ thuật được ứng dụng triệt để vào sản xuất, nhằm giảm giá thành đầu vào, nâng cao chất lượng mủ, từ đó tăng thu nhập cho người trồng cao-su.
Theo ông Ðặng Văn Hiếu, xã Nha Bích, huyện Chơn Thành (tỉnh Bình Phước), khi tham gia CLB, các thành viên được chia sẻ kinh nghiệm, kỹ thuật chăm sóc cây cao-su sao cho tiết kiệm, đạt hiệu quả về năng suất, chất lượng. Ðơn cử như việc bón phân, thông thường trước đây, người dân bón một năm ba lần vào các thời kỳ đầu, giữa và cuối mùa mưa. Do tự lên công thức cho nên có chất thì thừa, có chất thì thiếu, gây lãng phí mà kém hiệu quả.
Từ ngày tham gia vào CLB, người trồng cao-su được phân tích mẫu đất, mẫu phân, từ đó có sự điều chỉnh phù hợp cho cây trồng. Khi cây có bệnh, thay vì tự chữa, các thành viên trong CLB trao đổi, thảo luận với các nhà khoa học, từ đó có "phác đồ" điều trị phù hợp. Như vậy vừa tiết kiệm chi phí vừa giúp cây phát triển tốt hơn, lượng mủ cũng như chất lượng mủ cải thiện rất nhiều. Nhờ tính toán hợp lý, tiết kiệm tối đa chi phí đầu vào, người dân có lợi nhuận, đủ để trang trải và duy trì vườn cây.
Thời gian qua, Hội Hồ tiêu tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cũng phối hợp các doanh nghiệp, người trồng tiêu triển khai dự án tiêu sạch ra các vùng trồng tiêu trên địa bàn tỉnh với diện tích hàng nghìn héc-ta. Tại huyện Châu Ðức - địa phương có diện tích trồng tiêu lớn nhất tỉnh với hơn bảy nghìn héc-ta, đến nay đã có nhiều công ty triển khai các dự án liên kết trồng tiêu sạch với người dân. Khi tham gia dự án, các hộ trồng tiêu sẽ được cấp các giấy chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế, như: Sustainable Agriculture Network (SAN), Rainforest Alliance (RA) và GlobalGAP. Với những tờ giấy thông hành này, sản phẩm hồ tiêu Châu Ðức bán được giá hơn so với cách làm truyền thống.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bình Phước Lê Thị Ánh Tuyết chia sẻ, tỉnh đã xây dựng Dự án phát triển chuỗi cung ứng tiêu bền vững, liên kết với Công ty gia vị Nedspice Việt Nam xây dựng vùng dự án sản xuất hồ tiêu theo tiêu chuẩn Rainforest Alliance và bao tiêu toàn bộ sản phẩm cho nông dân. Dự án được thực hiện từ năm 2013 đến nay, đã thành lập được 60 CLB với hơn 1.500 hộ tham gia. Ðây là mô hình điển hình về liên kết sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường.
Chia sẻ về lợi ích khi tham gia liên kết sản xuất, ông Nguyễn Bá Thịnh, xã Lộc An, huyện Lộc Ninh (tỉnh Bình Phước) cho biết, trong những năm gần đây giá tiêu liên tục giảm. Song, gia đình tôi tham gia chuỗi trồng tiêu sạch cho nên luôn giữ được giá so với những hộ sản xuất theo phương thức truyền thống. Hiện nay, mỗi ki-lô-gam, công ty thưởng cho chúng tôi thêm năm nghìn đồng. Chăm sóc tốt cho cây, vừa có năng suất cao, vừa kéo dài chu kỳ khai thác mà mỗi năm lại có thêm mấy chục triệu đồng, vui nhất là không phải lo đầu ra.
Nâng cao năng lực chế biến sâu
Liên kết trong sản xuất mang lại hiệu quả và những bước phát triển chắc chắn cho nông nghiệp. Tuy nhiên, khó khăn nhất vẫn là thiếu các doanh nghiệp có đủ tiềm lực để liên kết với nông dân, sản xuất ra sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu thị trường. Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Hồng Sơn cho rằng, hiện nay, có khoảng 40% diện tích điều được trồng bằng giống điều ghép thì giống PN1 chiếm khoảng 30% diện tích, được trồng chủ yếu ở các tỉnh Bình Phước, Ðồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình Thuận.
Các vườn điều giống PN1 có áp dụng biện pháp tỉa cành tạo tán, bón phân và phun thuốc bảo vệ thực vật cho năng suất hạt cao từ 3 đến 4 tấn/ha, cá biệt có hộ đạt 5 tấn/ha, trong khi các vườn điều trồng giống thực sinh chỉ cho năng suất khoảng 1 đến 1,5 tấn/ha. Như vậy, nếu thực hiện tốt việc tái canh, triển vọng chủ động nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến ở khu vực các tỉnh Ðông Nam Bộ là rất khả quan. Tuy nhiên, kết quả có được như mong đợi hay không còn phụ thuộc vào việc xây dựng kế hoạch phát triển cũng như nỗ lực và quyết tâm thực hiện của các địa phương.
Ðối với vấn đề nâng cao năng lực chế biến sâu cho các ngành hàng, Giám đốc Công ty TNHH Lâm Hải Nhật Trường (huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước) Lương Thị Hải cho biết, hiện nay công ty đang sản xuất mủ cao-su khối phục vụ việc xuất khẩu. Mặc dù nhìn thấy được hiệu quả của việc tạo ra những sản phẩm chế biến sâu, nhưng kinh phí xây dựng các nhà máy có công nghệ chế biến hiện đại rất lớn, chưa kể việc phải xây dựng thương hiệu, đầu ra cho sản phẩm xuất khẩu. Một mình doanh nghiệp không thể tự xoay xở được.
Các đơn vị chức năng cần đồng hành, thường xuyên tổ chức xúc tiến thương mại để doanh nghiệp trong nước có cơ hội hợp tác liên kết với nhà đầu tư quốc tế có đủ năng lực, từ đó hình thành các đơn vị sản xuất lớn, đủ năng lực sản xuất cũng như xuất khẩu các mặt hàng. Bên cạnh đó, phải tăng cường hơn nữa công tác dự báo thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp tìm đầu ra cho sản phẩm cũng như đàm phán để gỡ bỏ hàng rào kỹ thuật, đánh giá và gửi thông tin cần thiết để các doanh nghiệp xuất khẩu có thêm một kênh thông tin tham khảo.
Theo Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản Trần Văn Công, để nâng cao năng lực chế biến sâu cho các loại cây công nghiệp ở Ðông Nam Bộ, cùng với việc nâng cao chất lượng ngay từ khâu sản xuất, cần phải quy hoạch, sắp xếp lại các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu theo hướng giảm các đầu mối, cơ sở chế biến nhỏ, không bảo đảm điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm và tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên ngành.
Ðơn cử như đối với ngành điều, các cơ sở chế biến cần nâng cao công suất chế biến, tiếp tục đầu tư, cải tiến công nghệ theo hướng cơ giới hóa, tự động hóa các khâu cắt tách vỏ cứng hạt điều, bóc vỏ lụa nhân điều, phân loại theo kích cỡ và mầu sắc, đóng gói; kết nối và khép kín toàn bộ dây chuyền chế biến ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao như: bánh kẹo điều, điều chiên và rang muối, tẩm gia vị, mật ong.
Các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cần liên kết chặt chẽ với các hợp tác xã, hội nông dân, các tổ chức chính trị khác ở địa phương để giúp nông dân các dịch vụ đầu vào, nhất là dịch vụ kỹ thuật, nhằm tạo dựng vùng nguyên liệu bền vững, ổn định lâu dài cho doanh nghiệp. Khuyến cáo người trồng áp dụng các mô hình sản xuất theo quy trình VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ. Các doanh nghiệp hướng dẫn người dân tổ chức sản xuất theo tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế: như đối với điều đạt tiêu chuẩn ISO, BRC, HACCP, GMP…, cao-su đạt tiêu chuẩn của Tổ chức AFNOR, IQNet, ISO/IEC… và hồ tiêu đạt tiêu chuẩn ASTA, ESA, JSA…
* Bài 1: Hệ lụy từ sản xuất tự phát
------------------------------------
(*) Xem Báo Nhân Dân từ số ra ngày 24-7-2018.