Kịp thời hỗ trợ để phục hồi thị trường lao động
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã có Tờ trình Chính phủ xem xét, ban hành Quyết định quy định về việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động (sau đây gọi tắt là Quyết định).
Tờ trình nêu rõ, việc ban hành Quyết định của Thủ tướng Chính phủ nhằm khẩn trương triển khai thực hiện những biện pháp đã được nêu trong Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/1/2022 của Quốc hội, Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/1/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình. Từ đó, Quyết định góp phần kịp thời phục hồi thị trường lao động, bảo đảm nguồn nhân lực cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; bảo đảm an sinh xã hội và đời sống của người lao động, nhất là người lao động đang phải ở thuê, ở trọ trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu vực kinh tế trọng điểm.
Chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động theo quy định tại Nghị quyết số 11/NQ-CP. Đồng thời, kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có đủ nhân lực cho phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh thông qua việc hỗ trợ người lao động đang làm việc, người lao động mới được tuyển dụng nhưng đang gặp khó khăn về chỗ ở.
Hai nhóm người lao động được hỗ trợ tối đa 3 tháng tiền thuê nhà
Căn cứ Nghị quyết số 11/NQ-CP, dự thảo Quyết định đưa ra 2 đối tượng. Đó là người lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp và người lao động quay trở lại thị trường lao động. Dự thảo Quyết định gồm 4 chương và 14 điều.
Giữa 2 đối tượng này có sự chênh lệch về mức hỗ trợ. Mức hỗ trợ đối với người lao động đang làm việc làm là 500 nghìn đồng/người/tháng (tối đa 3 tháng). Còn mức hỗ trợ đối với người lao động quay trở lại thị trường lao động là 1 triệu đồng/người/tháng (tối đa 3 tháng).
Để phân tách, xác định cụ thể 2 đối tượng hỗ trợ trên, dự thảo Quyết định căn cứ vào mốc thời gian giao kết và thực hiện hợp đồng lao động là ngày 1/3/2022.
Cụ thể, lao động đang làm việc hưởng mức hỗ trợ 500 nghìn đồng/người/tháng bao gồm những người đang ở thuê, ở trọ, có giao kết và thực hiện hợp đồng lao động trước ngày 1/3/2022. Lao động quay trở lại thị trường lao động được hưởng mức hỗ trợ 1 triệu đồng/người/tháng bao gồm những người đang ở thuê, ở trọ, có thời gian giao kết và thực hiện hợp đồng trong khoảng từ ngày 1/3/2022 đến ngày 30/6/2022.
Dự thảo Quyết định xác định phạm vi hỗ trợ người lao động có quan hệ lao động, đang ở thuê, ở trọ, làm việc trong các khu vực: Khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập, hoạt động theo quy định của Nghị định số 82/2018/NĐ-CP; Khu vực kinh tế trọng điểm, gồm Khu kinh tế được thành lập, hoạt động theo quy định của Nghị định số 82/2018/NĐ-CP và 24 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc 4 vùng kinh tế trọng điểm được quy hoạch, thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ .
Căn cứ Nghị quyết số 11/NQ-CP, chính sách hỗ trợ người lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp; chính sách thu hút người lao động quay trở lại thị trường lao động áp dụng với người lao động được tuyển dụng, có hợp đồng lao động trong các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh.
Các điều kiện hỗ trợ
- Người lao động được hỗ trợ tiền thuê nhà mức 500 nghìn đồng/người/tháng (chính sách hỗ trợ cho người lao động đang làm việc tại doanh nghiệp), tối đa 3 tháng nếu đủ 3 điều kiện sau:
1. Đang ở thuê, ở trọ trong khoảng thời gian từ ngày 1/3/2022 đến ngày 30/6/2022;
2. Có hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 1 tháng trở lên được giao kết và thực hiện trước ngày 1/3/2022;
3. Đang làm việc trong các doanh nghiệp (có tên trong danh sách tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc của cơ quan bảo hiểm xã hội, trường hợp không thuộc đối tượng tham gia bao hiểm xã hội bắt buộc thì phải có tên trong danh sách trả lương của doanh nghiệp).
- Người lao động được hỗ trợ tiền thuê nhà với mức 1 triệu đồng/người/tháng (chính sách hỗ trợ cho người lao động quay trở lại thị trường lao động), tối đa 3 tháng nếu đủ 3 điều kiện sau:
1. Đang ở thuê, ở trọ trong khoảng thời gian từ ngày 1/3/2022 đến ngày 30/6/2022;
2. Có hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 1 tháng trở lên được giao kết và thực hiện trong khoảng thời gian từ ngày 1/3/2022 đến ngày 30/6/2022, trừ trường hợp giao kết hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 2 Điều 20 Bộ luật Lao động;
3. Đang làm việc trong các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh (có tên trong danh sách tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc của cơ quan bảo hiểm xã hội, trường hợp không thuộc đối tượng tham gia bao hiểm xã hội bắt buộc, người mới tuyển dụng lao động thì phải có tên trong danh sách trả lương của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh).
Hồ sơ chỉ có danh sách người lao động đề nghị hỗ trợ. Trường hợp trong danh sách đề nghị hỗ trợ có người lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, người mới được tuyển dụng thì bổ sung thêm danh sách trả lương của tháng liền kề trước thời điểm đề nghị.
Quá trình thực hiện chủ yếu tại doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Thời gian từ lúc Ủy ban nhân dân cấp huyện tiếp nhận hồ sơ đến khi Ủy ban nhân dân tỉnh ra quyết định hỗ trợ và chi trả cho người lao động là 4 ngày.
Hằng tháng, trên cơ sở đề nghị của người lao động và danh sách lao động đề nghị hỗ trợ do doanh nghiệp lập.
Để thuận tiện, giảm áp lực cho doanh nghiệp, trong dự thảo cũng đã quy định doanh nghiệp có thể đề nghị hỗ trợ gộp 2 tháng hoặc 3 tháng. Việc tổ chức thực hiện chi trả thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn.
Trình tự, thủ tục:
1. Người sử dụng lao động tổng hợp danh sách người lao động đề nghị hỗ trợ trên cơ sở đơn đề nghị của người lao động có xác nhận của chủ cơ sở cho thuê, cho trọ. Người sử dụng lao động chịu trách nhiệm về tính chính xác về quan hệ lao động, đang làm việc thực tế tại doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh của người lao động;
2. Người sử dụng lao động gửi cơ quan bảo hiểm xã hội để xác nhận thông tin về người lao động đang tham gia bảo hiểm xã hội (thời gian xử lý của cơ quan bảo hiểm xã hội là 2 ngày);
3. Người sử dụng lao động nộp hồ sơ đề nghị hỗ trợ (danh sách người lao động đề nghị hỗ trợ) gửi Ủy ban nhân dân cấp huyện để thẩm định trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quyết định (thời gian xử lý của Ủy ban nhân dân cấp huyện là 2 ngày);
4. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét và phê duyệt đối tượng, kinh phí hỗ trợ và chỉ đạo thực hiện chi trả hỗ trợ;
5. Người sử dụng lao động chi trả trực tiếp cho người lao động trong vòng 2 ngày làm việc kể từ ngày nhận được kinh phí hỗ trợ.
- Thẩm quyền phê duyệt danh sách hỗ trợ: Ủy ban nhân dân tỉnh.
Căn cứ quy định tại điểm a khoản 1.3 Điều 3 Nghị quyết số 43/2022/QH15 "Hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động có quan hệ lao động, đang ở thuê, ở trọ, làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu vực kinh tế trọng điểm (sử dụng khoảng 6,6 nghìn tỷ đồng từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách trung ương năm 2021)”, dự thảo Quyết định đã tính toán dựa trên nguồn lực dự kiến (điểm b khoản 1 mục III Nghị quyết số 11/NQ-CP).
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cho biết, có ý kiến đề nghị mốc thời gian xác định đối tượng quay trở lại thị trường lao động là ngày 11/10/2021 để ghi nhận sự đóng góp, sẵn sàng quay trở lại thị trường lao động của người lao động trong thời gian khó khăn, thời gian đầu của trạng thái "thích ứng an toàn, linh hoạt”. Tuy nhiên, các bộ, ngành, địa phương đều cho rằng để bảo đảm theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 thì cần phải lấy mốc thời gian trong 6 tháng đầu năm 2022.
Đa số ý kiến nhất trí với dự thảo Quyết định lấy mốc thời gian xác định đối tượng quay trở lại thị trường lao động là từ ngày 1/3/2022. Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến bộ, ngành đề nghị cân nhắc lựa chọn mốc thời gian gắn với thời điểm có hiệu lực của Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội (ngày 11/1/2022), Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ (ngày 30/1/2022).
Về vấn đề này, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội thấy rằng, các mốc thời gian đề xuất đều phù hợp với mục tiêu, nội dung của các nghị quyết, với mốc thời gian đầu năm 2022 sẽ có nhiều đối tượng được hưởng chính sách quay trở lại thị trường lao động (mức 1 triệu đồng/người/tháng) nhưng sẽ khó khăn hơn trong tổ chức thực hiện với các trường hợp có thời gian hồi tố lại (tháng 1, tháng 2 năm 2022).
Do vậy, cơ quan này đề nghị lựa chọn mốc thời gian là ngày 1/3/2022 vì sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán. Đây là thời gian cần nhất để hỗ trợ phục hồi và phát triển thị trường lao động do tác động của đại dịch Covid-19; hỗ trợ để khắc phục được sự thiếu hụt lao động sau Tết như mọi năm, thiếu hụt do lao động nhiễm Covid-19 gia tăng trong thời gian gần đây.
Mốc thời gian này sẽ tương thích với các mục tiêu, thời gian của Nghị quyết số 43/2022/QH15; Nghị quyết số 11/NQ-CP; đồng bộ về thời gian với các nội dung khác của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội.
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cũng đã dự kiến đối tượng, kinh phí hỗ trợ theo các phương án và thấy rằng, thực hiện với mốc thời gian ngày 1/3/2022 sẽ có tính khả thi cao hơn, phù hợp với nguồn lực đã dự kiến bố trí.
Cần cơ quan bảo hiểm xã hội xác thực để tránh trục lợi chính sách
Một số ý kiến cho rằng việc này sẽ kéo dài thêm thời gian và việc xác nhận cũng không hết được đối tượng (trong đối tượng hỗ trợ còn có người không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, người mới được tuyển dụng).
Theo đánh giá của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, mặc dù chính sách đang được xây dựng trên nguyên tắc hỗ trợ nhanh, kịp thời, người lao động, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh chịu trách nhiệm về tính chính xác các nội dung kê khai. Tuy nhiên, để hạn chế việc trục lợi chính sách vẫn cần sự tham gia của cơ quan bảo hiểm xã hội xác thực lại việc người lao động có quan hệ lao động, đang thực tế làm việc tại doanh nghiệp.
Việc cơ quan bảo hiểm xã hội xác nhận đã được triển khai thực hiện ở nhiều chính sách gần đây, như Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 1/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, đã ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xác thực nên thời gian thực hiện sẽ được nhanh. Dự thảo Quyết định đang đề nghị cơ quan bảo hiểm xã hội thực hiện xác nhận trong 2 ngày làm việc.
Mặt khác, thông qua việc xác nhận của cơ quan bảo hiểm xã hội cũng là một trong những giải pháp để dần thu hút, phát triển người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.