Riêng tôi, xin được phép gọi là "Anh", vì khi GS còn sống, tôi vẫn thường gọi như vậy. Anh thường gọi tôi là "cậu" với một tình cảm thân thương. Tôi biết Anh và Anh cũng đã biết tôi ngay từ năm 1975, khi tôi, một nhà báo chuyên nghiệp, được điều động về công tác tại Ban Nghiên cứu Lịch sử Ðảng Trung ương. Ðến khi Ban Nghiên cứu Lịch sử Ðảng Trung ương hợp nhất với Ban Lý luận Trung ương thành Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh (gọi tắt là Viện Mác - Lê-nin - Hồ Chí Minh), tôi được tiếp tục làm việc tại Viện này. Lúc đầu, GS Nguyễn Vịnh, Ủy viên Trung ương Ðảng, làm Viện trưởng, sau đó, GS Ðặng Xuân Kỳ làm Viện trưởng. Từ đó, tôi được làm việc với Anh. Suốt nhiệm kỳ I và nhiệm kỳ II Hội đồng Lý luận Trung ương, GS Ðặng Xuân Kỳ làm Phó Chủ tịch chuyên trách của Hội đồng. Tôi lại được tiếp tục làm việc với GS tại Hội đồng. Giữa chúng tôi đã có nhiều năm gắn bó với nhau trong nghiên cứu lý luận.
GS Ðặng Xuân Kỳ là con trai trưởng Tổng Bí thư Trường Chinh. Anh đã từng giữ các chức vụ quan trọng của Ðảng và Nhà nước: Ủy viên Trung ương Ðảng, Viện trưởng Viện Mác - Lê-nin - Hồ Chí Minh, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam), Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng Lý luận Trung ương. Ở bất kỳ cương vị công tác phụ trách cơ quan khoa học nào, GS Ðặng Xuân Kỳ cũng làm tốt hai chức năng: quản lý khoa học và trực tiếp nghiên cứu lý luận.
Thời gian làm Viện trưởng Viện Mác - Lê-nin - Hồ Chí Minh, GS Ðặng Xuân Kỳ đã có nhiều đóng góp, góp phần làm phong phú lý luận cách mạng Việt Nam. Là GS triết học, GS luôn luôn căn dặn chúng tôi là trong khi nghiên cứu, bao giờ cũng phải gắn lý luận với thực tiễn đời sống xã hội. GS luôn luôn nhắc đến lời dạy của Bác Hồ trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" (viết năm 1947) là lý luận phải gắn chặt với thực tiễn. Nếu bóc tách lý luận ra khỏi thực tiễn hiện tại, sẽ trở thành lý luận suông. Theo GS, mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một trong những vấn đề cơ bản của khoa học mác-xít nói chung và của nhận thức luận mác-xít nói riêng. Giữa lý luận và thực tiễn có sự ràng buộc với nhau và tác động lẫn nhau. Trong mối liên hệ đó, thực tiễn có tác động quyết định. Một trong những nhân tố quan trọng nhất hợp thành thực tiễn là hoạt động cách mạng của những giai cấp và của mỗi con người cụ thể. Lý luận bao giờ cũng được sinh ra trên nền tảng thực tiễn. Theo GS Ðặng Xuân Kỳ, lý luận, xét cho cùng, là kết quả của sự khái quát những hoạt động và kinh nghiệm của nhân dân, bởi lẽ, nhân dân là người quyết định vận mệnh lịch sử của dân tộc mình. Anh thường viện dẫn câu nói của V.I.Lê-nin trong tác phẩm "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán" rằng, "quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức luận".
GS Ðặng Xuân Kỳ đã dành nhiều thời gian nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo GS Ðặng Xuân Kỳ, tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện tư tưởng cách mạng và GS rất chú trọng phương pháp, bởi vì, phương pháp nghiên cứu đúng sẽ mang lại hiệu quả thiết thực trong nghiên cứu. Anh thường nói với chúng tôi: "Ðối với việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp chỉ đúng khi nào phản ánh đúng thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh và phản ánh được thực chất các quy luật khách quan của đời sống xã hội Việt Nam chúng ta". Sức mạnh của phương pháp thể hiện ở chỗ nó đem lại cho khoa học và thực tiễn một công cụ có hiệu quả để nghiên cứu xã hội Việt Nam hiện nay và để bổ sung cho hoạt động hằng ngày của mỗi con người. Phương pháp nghiên cứu của GS Ðặng Xuân Kỳ là bao giờ cũng đi từ cội nguồn lịch sử cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh đến việc rút ra những hạt nhân cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự kết hợp giữa lịch sử và lô-gích trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh thường được Anh vận dụng khá nhuần nhuyễn, thể hiện trong các công trình và trong các bài viết. Có lần, GS Ðặng Xuân Kỳ tâm sự với chúng tôi là về nguyên tắc, lịch sử phù hợp với lô-gích. Nhưng sự phù hợp ấy không hề có nghĩa là tư tưởng phải lặp lại lịch sử với tính cụ thể của lịch sử, với hết thảy mọi chi tiết của lịch sử. GS Ðặng Xuân Kỳ thường viện dẫn câu nói của Ph.Ăng-ghen trong tác phẩm "Nghiên cứu về triết học": Lịch sử bắt đầu từ chỗ nào, thì quá trình tư tưởng cũng bắt đầu từ chỗ ấy, và sự phát triển về sau của quá trình tư tưởng chỉ là sự phản ánh của quá trình lịch sử dưới một hình thức trừu tượng và nhất quán về mặt lý luận.
Nhiệm kỳ 1996-2000 của Hội đồng Lý luận Trung ương, GS Ðặng Xuân Kỳ trực tiếp đảm nhiệm nghiên cứu một đề tài cấp nhà nước: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và xây dựng con người" (Mã số: KHXH 04-01). Trong công trình này, GS phân tích khá sâu sắc về mối quan hệ giữa phát triển văn hóa và xây dựng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Rằng, văn hóa thể hiện sự hoạt động tinh thần của con người, do những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội và do tính chất của chế độ xã hội và chính trị quyết định. Trong công trình này, Anh đã viện dẫn câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất họp tại Thủ đô Hà Nội, ngày 24-11-1946: "Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi". Và, rút ra kết luận là chúng ta phải suy ngẫm, nghiên cứu thấu đáo về việc xây dựng con người Việt Nam trí tuệ, lành mạnh, trung thực, nhân cách, bản lĩnh, con người văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Ðó là mục tiêu mà chúng ta phải vươn tới.
Nhiệm kỳ 2001-2005, với cương vị Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng Lý luận Trung ương, GS Ðặng Xuân Kỳ trực tiếp đảm nhiệm làm Chủ nhiệm Chương trình trọng điểm cấp nhà nước: "Xây dựng Ðảng trong điều kiện mới" (Mã số: KX.03), trực tiếp làm Chủ nhiệm Ðề tài nằm trong chương trình này: "Một số vấn đề lý luận về xây dựng Ðảng đối với một đảng cầm quyền lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội" (Mã số: KX.03.10). Ðể có kết quả nghiên cứu của Ðề tài, GS Ðặng Xuân Kỳ đã đi khảo sát thực tế, tìm hiểu về công tác xây dựng Ðảng tại nhiều địa phương: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Nam Ðịnh, Lâm Ðồng, Huế, Ðà Nẵng, Cần Thơ,... Tại một số địa phương, GS Ðặng Xuân Kỳ trực tiếp đến dự cuộc họp của chi bộ đảng để nghe tâm tư của đảng viên ra sao, đồng thời, trực tiếp trao đổi, thảo luận với các đảng viên trong chi bộ về công tác xây dựng Ðảng, qua đó, rút ra được những vấn đề cơ bản xây dựng Ðảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, kiểm tra; xây dựng Ðảng về trí tuệ, đạo đức, văn minh, cần kiệm, liêm chính và xây dựng Ðảng về nhân cách, tư cách đảng viên... Ðề tài mang tính tổng kết cao và khi nghiệm thu cấp nhà nước đã đạt loại xuất sắc.
GS Ðặng Xuân Kỳ là một nhà khoa học chân chính, đồng thời, cũng là một con người sống rất có lý, có tình. Anh rất quan tâm đến lớp cán bộ nghiên cứu lý luận "đàn em" như chúng tôi, mặc dù không khi nào Anh tự xưng mình là lớp "đàn anh". Anh thường gần gũi mọi người trong cơ quan Viện Mác - Lê-nin - tư tưởng Hồ Chí Minh trước đây và cơ quan Hội đồng Lý luận Trung ương tiếp đó. Anh đã đến tận phòng làm việc của anh em để trực tiếp trao đổi những vấn đề lý luận chưa ngã ngũ. Có hôm, Anh ngồi trao đổi với chúng tôi đến khuya mới về. Anh say mê nghiên cứu lý luận đến mức nhiều khi quên cả ăn tối. Với Anh, lý luận bao giờ cũng phải phát triển. Nếu chỉ khoanh lại trong minh họa lý luận, mà không phát triển lý luận, thì lý luận nhất định sẽ trở nên khô cứng, không thể chấp nhận được trong tình hình chính trị thế giới đang có những biến đổi hằng ngày, hằng giờ; khoa học và công nghệ, nhất là tin học, cũng đang có sự phát triển như vũ bão. Vì vậy, lý luận, phải "tiến ngang hàng" với sự phát triển của xã hội loài người. Chúng tôi rất thích, kính trọng Anh, vì Anh là người rất nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học. Mỗi khi, ai đó viết và nói không cẩn thận, không đúng với lịch sử, Anh rất khó chịu. Mỗi khi chúng tôi viết những bài còn sơ lược, chưa đạt yêu cầu, Anh chỉ ra từng câu, từng chữ viết không đúng và trực tiếp sửa ngay vào văn bản. Cứ thế, nhờ Anh chỉ bảo mà trình độ của chúng tôi dần dần được nâng lên. Với chúng tôi, Anh không một chút "gân guốc" trong nghiên cứu khoa học. Anh thường nói, muốn có kết quả trong nghiên cứu khoa học, thì phải có hai yếu tố cơ bản là dân chủ và bình đẳng. Thiếu một trong hai yếu tố này, khoa học rất khó phát triển. Với quan điểm này mà Anh đã tập hợp được đội ngũ các nhà khoa học đông đảo.
Hội đồng Lý luận Trung ương đã trải qua ba nhiệm kỳ hoạt động, đã nghiên cứu thành công một số vấn đề lý luận và đã được đưa vào văn kiện của các Ðại hội Ðảng toàn quốc như vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân; vấn đề xác định 5 nguyên tắc (sau bổ sung thêm một nguyên tắc thành 6 nguyên tắc) về đổi mới ở Việt Nam; vấn đề xây dựng, chỉnh đốn, đổi mới Ðảng, phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Ðảng là then chốt,... Ðây là những kết quả nghiên cứu tập thể của Hội đồng lý luận Trung ương, của các nhà khoa học ngoài Hội đồng và của các cơ quan trung ương của Ðảng, trong đó, có sự đóng góp của GS Ðặng Xuân Kỳ.
GS Ðặng Xuân Kỳ không chỉ là một nhà quản lý, nhà khoa học, mà trong đời tư, Anh còn là một người chồng, người cha mẫu mực. Anh sống đạo đức và mực thước. Chị Lê Thị Huấn, vợ Anh, ốm liệt trong suốt gần 20 năm, Anh vẫn tận tình chăm sóc đến nơi đến chốn. Anh tắm rửa cho vợ, thay quần áo cho vợ, đi đâu cũng mua thuốc về cho vợ uống. Nhờ sự chăm sóc của Anh, gia đình và các thầy thuốc mà chị Huấn đã sống lâu hơn. Hôm tiễn vợ về nơi yên nghỉ cuối cùng, chúng tôi thấy Anh gầy sọp đi, chân đi không vững, khóc mắt đỏ hoe.
Nay, Anh đã về cõi vĩnh hằng, yên giấc nghìn thu. Một nhà khoa học lý luận tầm cỡ đã nằm xuống. Nhưng những gì Anh để lại trong kết quả nghiên cứu khoa học đã trở thành những tài liệu quý đối với chúng ta. Anh ra đi, nhưng những sản phẩm khoa học của Anh còn đó. Chúng tôi, lớp người kế tục sẽ tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển, trân trọng những thành quả nghiên cứu của Anh để lại và mãi mãi biết ơn Anh.
Xin kính cẩn nghiêng mình thắp nén hương tưởng nhớ nhà khoa học, nhà lý luận Ðặng Xuân Kỳ. Cầu mong Anh yên giấc nghìn thu.