Cuộc chinh phục lòng đá xây dựng con đường hoàn toàn bằng thủ công này là kỳ tích - một huyền thoại về sức người. Hơn 2.000 thanh niên xung phong, dân công thuộc tám tỉnh phía bắc tham gia công trường xây dựng này gần ba triệu ngày công, khai phá gần ba triệu m3 đá ròng rã trong sáu năm trời để làm nên con đường.
Vượt qua gian khổ, hy sinh
Chúng tôi dừng lại rất lâu trên đỉnh Mã Pì Lèng, được 'xếp hạng' là một trong 'tứ đại đỉnh đèo' miền biên cương phía bắc, 'nóc nhà' của cao nguyên đá Ðồng Văn. Dưới đáy thung sâu hun hút, dòng sông Nho Quế mảnh như sợi chỉ xanh uốn lượn, từ trên đèo muốn xuống tới sông đi bộ phải mất hơn một ngày. Tại vị trí này, người ta xây một trạm dừng chân cho du khách ngắm phong cảnh và đặt một tấm bia đá ghi lại những mốc chính trong quá trình xây dựng con đường: Ngày khởi công: 10-9-1959, ngày hoàn thành 15-6-1965. Thành phần mở đường gồm 16 dân tộc ở các tỉnh Cao - Bắc - Lạng, Hà - Tuyên - Thái, Hải Hưng, Nam Ðịnh. Riêng dốc Mã Pì Lèng, công nhân đã treo mình 11 tháng để mở đường.
Chỉ vài dòng chữ đơn giản như vậy, nhưng nó ẩn chứa biết bao điều vĩ đại. Trong căn nhà nhỏ tĩnh lặng phố Ðội Cấn (Hà Nội), đồng chí Phạm Ðình Dy, nguyên Trưởng ty Giao thông Hà Giang, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên (cũ) miên man nhớ về những kỷ niệm hào hùng một thời. Hơn 80 nghìn đồng bào, chủ yếu là dân tộc Mông phía sau Cổng Trời Quản Bạ chưa có đường đi. Bao đời, họ chỉ có cách vượt núi bằng đôi chân hoặc ngựa thồ men theo đường mòn trên vách đá tai mèo lởm chởm.
Khi mới được điều động về làm Trưởng ty Giao thông Hà Giang, đồng chí Phạm Ðình Dy đã được đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang Nguyễn Văn Xã giao đi khảo sát, nghiên cứu tuyến đường từ thị xã Hà Giang lên Ðồng Văn nhằm giúp đồng bào bớt nghèo nàn, lạc hậu. Sau một tháng lặn lội trên biển đá tai mèo, đồng chí Dy phác thảo và vẽ tuyến trên bản đồ, sau đó cắm mốc trên thực địa, tính toán công sá, thuốc mìn,... Khi báo cáo với Khu ủy Việt Bắc, Phó Bí thư Khu ủy Thanh Phong đã ủng hộ nhiệt tình, điều động lực lượng thanh niên xung phong (TNXP) của các tỉnh Việt Bắc lên làm đường cho Hà Giang. Mục tiêu cuối cùng của việc mở đường phải đạt được ý nghĩa dân sinh thiết thực, 'gieo' cuộc sống mới trên vùng đá xám cho hơn tám mươi nghìn đồng bào dân tộc thiểu số. Tháng 10-1959, con đường được khởi công, lực lượng gồm hơn 1.000 dân công trong tỉnh và hơn 1.000 TNXP thuộc tám tỉnh phía bắc. Ông Sùng Ðại Dùng, người Mông ở xã Ma Lé (Ðồng Văn) được bầu làm Phó Trưởng ban chỉ huy kiêm Bí thư đoàn thanh niên công trường mở đường Hạnh Phúc. Họ mở đường theo phương pháp cuốn chiếu, làm đến đâu thông đường đến đó. Ở tuổi 81, nhưng khi gợi lại kỷ niệm của một thời hào hùng, giọng ông Dùng vẫn sang sảng đầy sôi nổi: Ở đoạn km 19 có một vách đá khổng lồ, rất cứng. Mấy trăm người chỉ có trong tay cái choòng, cái búa, ra sức đục, bẩy từng viên đá, liên tục hơn hai tháng trời. Lực lượng TNXP thuở ban đầu lên Hà Giang mở đường, hầu hết trong độ tuổi 16 đến 21. Nhiều người ở miền xuôi, lần đầu 'thấm' gian khổ ở chốn rừng thiêng nước độc, mọi thứ phục vụ sinh hoạt đều thiếu, từ gạo, rau xanh, đến nước, muối,... Ðó là chưa kể phải đối mặt thời tiết khắc nghiệt miền cao nguyên đá, mùa đông lạnh giá thấu xương, mùa hè oi nồng ngột ngạt.
Trong quá trình làm đường, đã có những 'kiện tướng' được phong: ông Lôi Quang Hải và Lý A Pủn (đều quê ở Lạng Sơn) trong bảy giờ đục các lỗ choòng, đã 'khoan' sâu vào lòng đá được 4,2 m. Chừng ba, bốn tháng sau, đoạn đường từ Hà Giang lên Làng Ðán dài khoảng 30 km hoàn thành, tổ chức thông xe rầm rộ. Ðồng bào ở dốc Bắc Xum lần đầu trong đời được biết thế nào là ô-tô, tranh nhau ra sờ nắn chiếc xe rồi so sánh với... con trâu, con ngựa của bản mình. Ở thời điểm đó, bọn phỉ vẫn còn hoành hành phía sau Cổng Trời Quản Bạ cũng là một thách thức. Thế nhưng vượt qua mọi vất vả, khó khăn, gần bốn năm sau, ngày 9-9-1963, cung đường đến Ðồng Văn dài 164 km với nền đường rộng 4,5 m được xây dựng hoàn toàn bằng thủ công đã hoàn thành, sức người đã chiến thắng biển đá tai mèo.
Ông Nguyễn Ðức Thiện, Chủ tịch Hội cựu TNXP tỉnh Hà Giang kể lại: Ngày thông xe, đoàn ô-tô hơn 20 chiếc chở Thiếu tướng, Bộ trưởng Giao thông vận tải Phan Trọng Tuệ cùng các đại biểu đã vượt qua Cổng trời Quản Bạ đến tận Ðồng Văn. Cuộc khai sơn, phá thạch mở đường đã thành công, như một cổ tích thời nay. Thừa thằng xốc tới, tỉnh Hà Giang tiếp tục mở tiếp cung đường từ Ðồng Văn lên Mèo Vạc dài 21 km. Ðây là tuyến gian nan nhất, kỳ công nhất bởi phải vượt qua đèo Mã Pì Lèng, có dốc chín khoanh, đỉnh đèo dài 7 km, trong đó 'xương' nhất là 1,2 km ở đỉnh cao nhất của Mã Pì Lèng. Lúc bấy giờ, công trường đã được cấp một chiếc máy khoan DK 34 do Tiệp Khắc chế tạo. Lực lượng TNXP làm đường thành lập 'đội cơ dũng' cảm tử, leo lên đỉnh vách đá cheo leo, dùng xà-beng đào lỗ sâu 1,2 - 1,5 m làm điểm tựa, buộc dây vào bụng thả theo vách đá dựng đứng gần 60 m, rồi cứ thế treo mình, cần mẫn khoan, đục từng tý, từng tý một vào vách đá, từ sáng sớm đến tối mịt. Ðến giờ ăn trưa thì đồng đội thả cơm xuống, vẫn trong tư thế treo mình như vậy, ăn xong họ lại tiếp tục đục, khoan, ròng rã trong 11 tháng.
Ông Thiện vẫn nhớ như in trường hợp hy sinh của anh Ðào Ngọc Phẩm, là đối tượng cảm tình Ðảng, quê ở Ðại Từ (Thái Nguyên). Khi đang kè đá thì có hai bố con người Mông đi qua, bất chợt, một tảng đá lở từ trên đỉnh núi xuống, anh Phẩm lao ra, đẩy hai bố con vào rìa vách đá, còn anh bị tảng đá cuốn văng xuống vực và kẹp vào một gốc cây. Ðồng đội của anh phải đục lỗ, đóng cọc xà-beng dọc vách đá lần xuống vực sâu khoảng 800 m để kéo thi thể anh lên mai táng. Anh Phẩm sau đó đã được kết nạp Ðảng, truy tặng Bằng khen và sau này được công nhận liệt sĩ. Một trường hợp hy sinh khác là anh Ðinh Cao Vân, quê ở Trực Ninh (Nam Ðịnh), khi bẩy viên đá xuống, anh đã bị một tảng đá khổng lồ nặng chừng 20 tấn lở xuống đè bẹp. Toàn bộ công trường làm đường Hạnh Phúc, 13 TNXP đã hy sinh, được an táng tại Nghĩa trang huyện Yên Minh.
Ước mơ về con đường Hạnh Phúc
Ngày 20-3-1965, con đường từ Ðồng Văn qua Mã Pì Lèng đã được thông đến Mèo Vạc. Ước mơ có con đường từ bao đời của hàng chục nghìn đồng bào miền cao nguyên đá đã được thỏa nguyện. Ðến nay, sau gần thế kỷ mở đường Hạnh Phúc, tất cả các xã của bốn huyện vùng cao nguyên đá Quản Bạ, Yên Minh, Ðồng Văn, Mèo Vạc đã có đường ô-tô về trung tâm. Những huyện lỵ xưa lụp xụp vài nóc nhà nay đã mang hình hài, vóc dáng của phố núi giàu đẹp. Con đường Hạnh Phúc đã và đang từng bước đưa miền núi xích lại gần hơn với miền xuôi. Tuy nhiên, cung đường Hạnh Phúc - quốc lộ 4 C, trừ một số đoạn qua Quản Bạ, Phố Cáo, Ðồng Văn,... được mở rộng, còn lại đã xuống cấp nghiêm trọng do không được nâng cấp, tu bổ kịp thời. Hằng ngày, có hàng trăm lượt xe tải hạng nặng chở bê-tông, nguyên vật liệu cung cấp cho các công trình thủy điện trên sông Nho Quế đã phá nát con đường, biến con đường ước vọng của người vùng cao như trở lại bé nhỏ và gập ghềnh thuở ban đầu.
Sau khi được Tổ chức GGN (Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu) công nhận là thành viên, đã tạo động lực quảng bá vẻ đẹp của cao nguyên đá Ðồng Văn ra thế giới, mở ra cơ hội lớn về du lịch, biến núi đá tai mèo thành tiềm năng, lợi thế để phát triển. Ðể đáp ứng được nhu cầu phát triển trong thời kỳ hội nhập, con đường cần phải được đầu tư, nâng cấp tương xứng. Tuy nhiên, gần chục năm nay, hầu như con đường mới chỉ được vá víu tạm bợ, những ổ gà, ổ voi chi chít.
Tôi lại nhớ lời ông già Sùng Ðại Dùng ngồi tâm sự bên km 0 của con đường Hạnh Phúc: Khi có đường Hạnh Phúc, cuộc sống của đồng bào Mông vùng cao nguyên đá đã đổi thay gấp nghìn lần. Gần 50 năm trước, khi mới làm xong đường, đi lên Ðồng Văn - Mèo Vạc, vẫn phải mất ba ngày, nay có thể đi trong ba giờ. Tôi ao ước và tin tưởng rằng, khoảng 50 năm sau, con cháu chúng ta sẽ mở con đường lên Ðồng Văn - Mèo Vạc không phải vượt đèo dốc quanh co nguy hiểm, có thể đi xuyên qua lòng núi, từ Hà Giang lên tới cực bắc Tổ quốc chỉ mất 30 phút chạy xe.