Nhân Dân điện tử xin giới thiệu bài phân tích của hai tác giả Sudhir Shetty, Chuyên gia Kinh tế trưởng khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Ngân hàng Thế giới và Ông Andrew D. Mason, Chuyên gia Kinh tế cao cấp, Văn phòng Kinh tế trưởng khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Ngân hàng Thế giới.
Trong nửa thế kỷ qua, Đông Á đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc duy trì tăng trưởng kinh tế và cải thiện mức sống. Mười nền kinh tế đang phát triển của khu vực hiện đều là những quốc gia có thu nhập trung bình và đã tăng trưởng gấp 3 lần. Sáu trong số này đã chuyển từ thu nhập thấp sang trung bình chỉ trong 1/4 thế kỷ, và một số quốc gia thực sự có khát vọng trở thành nước thu nhập cao ngay trong thế hệ tiếp theo. Sự tăng trưởng bền vững của khu vực đồng nghĩa với việc hơn một tỷ người dân đã thoát khỏi cảnh nghèo cùng cực, và nhờ thế gần 2/3 dân số Đông Á hiện có thể được xem là có an ninh kinh tế hoặc thuộc tầng lớp trung lưu.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều việc phải làm để tiếp tục đẩy mạnh sự trỗi dậy của Đông Á. Những thay đổi trong bối cảnh toàn cầu và tại từng quốc gia có nghĩa là việc nâng tầm trở thành một nền kinh tế thu nhập cao sẽ phụ thuộc vào việc các quốc gia thay đổi mô hình phát triển kinh tế của họ như thế nào để đáp ứng tốt với những hoàn cảnh thay đổi này.
Một nghiên cứu mới được công bố của Ngân hàng Thế giới, Sự trỗi dậy của Đông Á, xem xét triển vọng phát triển Đông Á. Thông điệp trọng tâm của báo cáo này là mô hình phát triển của khu vực mặc dù đã rất thành công cho đến nay, sẽ không nhất thiết tiếp tục phát huy hiệu quả trong thời gian tới.
Câu chuyện tăng trưởng thần kỳ của Đông Á được xây dựng trên mô hình phát triển kết hợp giữa tăng trưởng hướng ngoại, phát triển nguồn nhân lực và quản trị kinh tế phù hợp. Dù các mô hình này vẫn có tác dụng, nhưng cũng cần được điều chỉnh để thích nghi hoàn cảnh mới.
Ông Sudhir, tác giải chính của báo cáo.
Việc thích nghi ngày càng trở nên cấp bách do nhiều yếu tố – bên trong và ngoài khu vực. Thương mại toàn cầu đang chậm lại, công nghệ thay đổi nhanh chóng và sự kỳ vọng của tầng lớp trung lưu ngày càng tăng là ba trong những yếu tố chính. Những thay đổi này cũng ẩn chứa những nguy cơ tiềm tàng khiến tăng trưởng năng suất chậm lại, gia tăng cách biệt, và tạo sức ép ngày một cao đối với các thể chế nhà nước.
Thương mại toàn cầu chậm lại đồng nghĩa các quốc gia cần tìm kiếm những phương thức khác để thúc đẩy tăng trưởng năng suất. Công nghệ thay đổi, dù mang lại cơ hội tăng năng suất, nhưng nó cũng có thể khoét sâu thêm sự bất bình đẳng hiện có giữa những lao động dựa trên mức độ họ có đủ các kỸ năng không. Và, khi Đông Á đã trở nên giàu có và nhiều người gia nhập tầng lớp trung lưu, các thách thức về kinh tế chính trị càng trở nên phức tạp hơn, chẳng hạn như xây dựng liên minh có độ phổ rộng mỗi khi cần thực hiện cải cách chính sách, hoặc khi người dân đòi hỏi nhiều dịch vụ công tốt hơn.
Vậy làm thế nào để những quốc gia đang phát triển tại Đông Á có thể điều chỉnh mô hình phát triển của mình để duy trì quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thu nhập cao? Dù đa phần câu trả lời sẽ tuỳ thuộc tình hình cụ thể của từng quốc gia, nhưng sự kết hợp của cải cách chính sách cần tập trung vào: tăng cường năng lực cạnh tranh kinh tế, xây dựng kỹ năng, thúc đẩy hòa nhập, củng cố thể chế nhà nước, và bảo đảm nguồn tài chính chuyển đổi sang thu nhập cao.
Để tăng khả năng cạnh tranh, trọng tâm hiện nay cần tập trung hơn vào cải cách khu vực dịch vụ, làm sâu sắc hơn các hiệp định thương mại, mở rộng hơn các chính sách đổi mới sáng tạo, và cải thiện khả năng tiếp cận tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những ưu tiên hàng đầu về kỹ năng bao gồm phát triển các kỹ năng nhận thức và cảm xúc ở mức độ cao hơn, hỗ trợ các hệ thống phát triển kỹ năng liên tục, và nâng cao năng lực kỹ thuật số và kỹ thuật của người dân. Để thúc đẩy hoà nhập, việc tăng cường các dịch vụ việc làm, liên kết lợi ích thất nghiệp với chuyển đổi kinh tế, và cải thiện khả năng tiếp cận công nghệ kỹ thuật số đều rất quan trọng. Việc tăng cường thể chế nhà nước đòi hỏi chú trọng nhiều hơn vào các cơ chế để người dân tham gia và bày tỏ chính kiến, sự minh bạch của chính phủ lớn hơn cũng như các hệ thống kiểm soát và cân bằng mạnh mẽ hơn. Đảm bảo nguồn tài chính cho chuyển đổi sang thu nhập cao đòi hỏi các biện pháp mở rộng cơ sở thuế và hạn chế cạnh tranh thuế.
Những ưu tiên chính sách mới nổi này cần được bổ sung bằng các chính sách nền tảng – những cải cách các quốc gia đang theo đuổi và đóng vai trò quan trọng để duy trì sự phát triển. Chẳng hạn trong việc tăng cường khả năng cạnh tranh, cần tiếp tục nhấn mạnh cải cách quy chế. Trong xây dựng kỹ năng, việc cải thiện kết quả học tập trong các trường học vẫn là điều quan trọng.
Nếu các nhà hoạch định chính sách không hành động quyết đoán trên các mặt trận này, sự tiến bộ của khu vực có nguy cơ bị đình trệ. Chúng ta không được quên rằng các nước đang phát triển ở Đông Á vẫn còn kém giàu có năng suất thấp hơn nhiều so với các quốc gia có thu nhập cao. Chẳng hạn, thu nhập bình quân đầu người của Trung Quốc vẫn chỉ bằng 1/5 mức trung bình của các nền kinh tế có thu nhập cao, trong khi thu nhập bình quân đầu người của Campuchia là khoảng 3% mức trung bình thu nhập cao. Mức năng suất lao động và vốn nhân lực của những nước này vẫn còn tụt hậu. Chẳng hạn, khi Hàn Quốc đạt mức thu nhập cao vào năm 2001, năng suất lao động của nước này đã cao gấp 2,5 lần và vốn nhân lực cao gấp 3 lần so với Trung Quốc hiện nay.
Tóm lại, những thách thức và bất định hiện tại không có chỗ cho sự tự mãn trong việc phát triển Đông Á. Trong lĩnh vực phát triển cũng như những lĩnh vực khác, thành công trong quá khứ không bảo đảm thành công trong tương lai. Những quốc gia hài lòng với vòng nguyệt quế của mình, bất chấp bối cảnh toàn cầu, khu vực và quốc gia đang thay đổi nhanh chóng, có nguy cơ bỏ lỡ các cơ hội phát triển bền vững đồng thời lại trở thành nạn nhân của những thách thức mới. Chúng tôi hy vọng rằng các nhà hoạch định chính sách trên khắp Đông Á xem xét các tác động từ những thay đổi của thời đại và điều chỉnh chính sách phát triển quốc gia của mình cho phù hợp.